← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XV -ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG DƯỚI CỜ TAM SẮC-1938-1939--

Năm 1938 người ta thường nghe câu vè dân gian Tý hư Sửu hao Dần bất lợi. Nạn đói tràn ngập nông thôn, năm 1936 bị hạn hán, năm 1937 nạn lụt, năm 1938 nạn sâu cắn lúa. Giá sinh hoạt vẫn ngày càng đắt đỏ. Nông dân, thợ thuyền, phu phen lâm vào cảnh khổ. Những cuộc bãi công lại lẻ tẻ nổ ra trong các xưởng thủ công, lò gạch, lò gốm, xưởng thủy tinh, xà phòng, vận chuyển đường sông, các xưởng sửa chữa...

Tại Sài Gòn-Chợ Lớn, thanh tra lao động vẫn ít nhiều đứng làm trọng tài các cuộc đối đầu giữa chủ và người làm công nhưng không hề can thiệp vào những vụ sa thải lạm quyền. Chẳng hạn như trường hợp nhà máy xay lúa Vạn Ích Nguyên chủ người Hoa hôm tháng giêng đã thô bạo đuổi 120 người phu, qua tháng 2, 400 phu khuân vác từ chối bốc dỡ những tải thọc, họ nhờ có anh em đội vận tải đường sông ủng hộ, gồm 300 chiếc thuyền bất động tại bờ ke, thế nên họ làm liệt bại hàng loạt nhà máy xay lúa to ở Chợ Lớn. Ba ngày bãi công là đủ để đạt được một mức lương tăng đáng kể.

Ở Tỉnh, đôi khi các chủ tỉnh cũng muốn làm dịu tình hình, như ở Bến Tre đã thỏa thuận tăng 30% lương cho thợ cưa, còn ở Bạc Liêu, viên chủ tỉnh đã thả những phu sửa chữa đường từ Cà Mau đi Năm Căn bị bắt vì họ đình công.

Thợ thuyền, dân cày và phu vẫn tiếp tục tranh đấu đòi tăng lương, không những chống lại chủ thực dân và người Hoa bóc lột mà cũng đối đầu với chủ tư sản và điền chủ bản xứ. Thế thì lời kêu gọi của đảng cộng sản Đông Dương đoàn kết giai cấp trong Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương dường như không ai nghe theo.

Tại vùng quê, tưởng chừng như tình hình đã êm dịu, thế mà vẫn còn vài trăm nông dân biểu tình vào tháng 8 tại Tòa Bố Chợ Lớn chống việc đấu thầu ruộng đất công ở Chợ Lớn và Cần Giuộc và đòi phân bố đất đai đó cho dân cày nghèo. Kết quả vài chục người bị bắt.

Vào cuối năm, tại Tỉnh Bặc Liêu, nông dân đói lao vào cướp kho thóc, một cuộc nổi dậy bất bạo động, không đổ máu. (119)

Bộ máy đàp áp vận hành chậm chạp, không can thiệp đến mức triển khai hết cỡ dữ dội như những năm 1930-1931 nữa. Nhưng bao giờ trên bàn cân vẫn hai mức độ nặng nhẹ khác nhau! Khoan hòa đối với bọn tước đoạt ruộng đất, và tàn ác đối với những nạn nhân nghèo đói. Trong khi những người cướp kho thóc bị án, có người bị tới 5 năm tù, thì Tòa Thượng Thẩm xử một kẻ tước đoạt ruộng đất làm chết người, chỉ kết án ở mức tối thiểu: 3 năm cấm cố và 300 franc bồi thường.

‘’Nước Pháp bị đe dọa tại Đông Dương’’

Chế độ Hitler đe dọa ám ảnh mẫu quốc. Léon Blum trở lại chính quyền ngày 17 tháng 3 năm 1938 với một chương trình phái tả, nhưng chỉ chưa đầy ba tuần lễ đã rơi, giai cấp thợ thuyền chưa có được thêm những lợi lộc mới nào. Mặt Trận Bình Dân không còn nữa. Ngày 9 tháng 4 Daladier thay thế Léon Blum, cầm đầu chính quyền với một mình giai cấp tư sản, cho mãi tới khi chiến tranh bùng nổ.

Đất nước Mặt Trời Mọc tấn công Trung Hoa ngày 7 tháng 7 năm 1937. Quân Nhật chiếm đóng toàn bộ Bắc Trung Quốc từ tháng 3 năm 1938, rồi tới Quảng Châu từ tháng 10. Đảng viên cộng sản Pháp theo Stalin lên tiếng báo động trong Tập san Bolshevik (Cahiers du Bolchevisme) số tháng 11-12 năm 1937. Dưới nhan đề quá lắm, ‘’Nước Pháp bị đe dọa tại Đông Dương’’ Magnien viết:

Chúng ta thấy nguyên lo sau đây trong mọi cuốn sách giáo khoa ở nhà trường Nhật Bản: Liên Minh Đông-Á của chúng ta cần đổi mới đời sống nhân loại. Vấn đề là phải hướng dẫn thế giới theo chiều hướng Đông phương một lần nữa. Để đi đến mục đích ấy, nước Nhật của những người dòng dõi Võ Sĩ Đạo và chính quyền Tướng quân - nghĩa là của hai đại thế tộc Toàn Quyền thuộc hai gia đình Matsui và Matsubishi- đã dấn bước vào cuộc chiến tranh lớn chinh phục nước Trung Hoa. Từ đó, nước Nhật muốn tiến thêm nữa: Chiếm những nước khác, đuổi người da trắng ra khỏi Châu Á - ‘’Á Châu của người Châu Á’’, ‘’Á Châu của người Nhật’’ -. Chúng ta phải chịu trách nhiệm trước sự thật và trước nhân dân Pháp mà nói rằng chính nước Pháp là nước đầu tiên lâm vào vòng nguy hiểm tại Đông Dương. Nước Pháp có lẽ bị tấn công trong nay mai tại Đông Dương. (120)

Sau khi Honel qua Sài Gòn, đảng cộng sản Đông Dương nỗ lực tuyên truyền Mặt Trận Dân Chủ Pháp-Việt và đổi tên tờ báo chiến đấu công khai là Tiền Phong ra Dân Chúng một cái tên báo vô hại.

Nối gót Tập San Bolshevik, tờ Dân Chúng ngày 5 tháng 4 năm 1938 viết:

Hướng dẫn quần chúng nhân dân Đông Dương bảo vệ xứ sở của mình, làm cho họ sinh hoạt về chính trị, về xã hội và kinh tế; muốn vậy phải cho họ có những quyền tự do dân chủ cơ bản. Có như thế họ có thể dễ dàng vứt bỏ ảo vọng về công cuộc đổi mới thần kỳ dưới gót giầy ống của quân Phù Tang, và làm cho họ hài lòng cầm súng ống đứng bên cạnh người Pháp dân chủ (nguyên văn) như anh em chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít của trục Berlin-Roma-Bangkok-Tokyo. Làm như thế không có ý nghĩa là mặc cả với đế quốc chủ nghĩa để lôi cuốn quần chúng vào cuộc chiến tranh đế quốc, theo như tờ Tranh Đấu nêu lên.

Vào tháng 5 năm 1938, chính phủ Daladier ra nghị định tuyển mộ 20.000 dân bản địa và tung ra một khoản công trái ‘’phòng thủ Đông Dương’’ khoảng 33 triệu đồng.

Những người lập hiến Bùi Quang Chiêu và Lê Quang Liêm hô hào ‘’Rồng Nam phun bạc’’. Nguyễn Văn Tạo cùng Dương bạch Mai hưởng ứng, động viên quần chúng đăng lính và đầu quân hàng loạt để ủng hộ ‘’nước Pháp dân chủ chống chủ nghĩa phát xít Nhật’’ đang đe dọa. Trong một tờ truyền ngày 1 tháng 7, ban trung ương giáo huấn đảng viên:

Con mắt thèm thuồng của người Nhật đã dòm tới Đảo Hải Nàm, trực tiếp đe dọa nền an ninh ở Đông Dương. Đứng trước tham vọng về lãnh thổ của bọn phát xít, đảng cộng sản Đông Dương tán thành những biện pháp [chính phủ] đã ban hành. (121)

Thế thì chính quyền thuộc địa trở thành một đồng minh khả dĩ của các môn đệ Stalin. Thậm chí trong đảng cộng sản Đông Dương một số đảng viên còn đề nghị chia nhỏ phiếu công trái 100 $ thành những tờ 10 $ và 5 $ cho dân nghèo có thể mua! Một số đồng chí khác vẫn phản đối sự hợp tác với chính quyền thực dân và chỉ trích thái độ nhiệt thành quá đáng, bị đình chỉ công tác, như trường hợp của ba ủy viên Tỉnh Cần Thơ hồi tháng 8 năm 1938. Ban trung ương cảm thấy quần chúng chán ghét công trái bèn lên án các đồng chí tuyên truyền công trái quá nhiệt liệt, trong một tờ truyền đơn ngày 6 tháng 8 năm 1938.

Ngày 2 tháng 10, Ban trung ương gửi cho xứ ủy Nam Kỳ:

Các đồng chí đó (Ủy ban Cần Thơ) đã chất vấn chúng ta: Nếu như chính quyền (thực dân) không ban hành các quyền tự do dân chủ cho chúng ta thì liệu chúng ta có phải ủng hộ họ trong cuộc chiến đấu chống phát xít Nhật hay không? Chúng tôi trả lời: Kể cả trường hợp đó, chúng ta hãy tiếp tục ủng hộ chính quyền. Nếu như chúng ta không làm thế thì lập trường của chúng ta cũng giống như lập trường của phái xu hướng Trotskij, là những người phản đối tăng cường phòng thủ đất nước. (122)

Ngày 1 tháng 4 năm 1939, tờ Dân Chúng (lúc này tờ Le Peuple ra bằng chữ Quốc Ngữ) viết: Môn đệ Trotskij tự bán mình cho Nhật Bản và chủ nghĩa phát xít: Phái Đệ Tam hết sức lo ngại cho sự còn mất của nói giống dân Việt Nam mà ủng hộ quốc phòng!

Nhóm Đệ Tứ Tháng Mười xác định rõ lập trường của họ ngay từ tháng 5 năm 1938:

Chính sách Thời Báo của phái Đệ Tam cổ xúy là hãy đứng vào hàng ngũ của chủ nghĩa đế quốc Pháp để ủng hộ xứ sở. Dân chúng xứ sở này không có tự do, không có đất đai, họ chẳng có gì mà bảo vệ cả. Chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Nhật cũng như chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp; chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp cũng như chúng ta đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Nhật.

Chúng tôi cổ xúy thành lập mặt trận thống nhất chống đế quốc tập hợp giai cấp vô sản Pháp, giai cấp vô sản Nhật, nhân dân các nước Triều Tiên, Đài Loan, Bắc Phi, và các thuộc địa khác. Trong thời kỳ chiến tranh, chúng ta phải đoàn kết đệ huynh giữa giai cấp vô sản cùng các dân tộc bị áp bức. (123)

Báo chí của nhóm Đệ Tứ lên tiếng chống những khoản thuế khóa dự bị chiến tranh, chống lại điều kiện sinh hoạt khốn cùng do các khoản thuế suất phục vụ chiến tranh gây ra.

Ngày 19 tháng 5 năm 1939 Phan Văn Hùm viết trên tờ Tranh Đấu:

Chừng nào dân chúng còn đói nghèo khốn khổ thì họ chẳng có gì để mà bảo vệ. Người ta chỉ cho chúng ta thấy nào là ruộng vườn, đất đai, nào là nhà cửa...Nhưng một khi chúng ta đến gần những thứ đó mà nhìn thì chúng ta thấy cảnh rực rỡ, mĩ miều, của cải giàu sang, tất cả đều thuộc quyền sở hữu của giới đại tư sản. Trong mười loại thuế mới, có thuế đường và diêm, hai thứ sản phẩm tiêu thụ hàng ngày... ‘’Phòng thủ quốc gia’’? Tại sao người ta lại dồn lên lưng của dân nghèo?

Người ta thấy giá gạo tăng từ 5 đến 10 xu một lít, một ký lô thịt tăng từ 35 lên 70 xu; một mét vải bông từ 20 lên 40 xu. Dân chúng đắng cay châm biếm nói tới ‘’hộp quẹt Đệ Tam’’ khi bao diêm đã tăng từ 1 xu lên 1 xu rưỡi.

Ngày 20 tháng 5 năm 1939, trong một bức điện gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa, Toàn Quyền Brévié có lời khen lập trường của Nguyễn Văn Tạo:

Trong khi những người cộng sản theo Stalin đều đồng ý với Nguyễn Văn Tạo mà nhìn nhận rằng quyền lợi của quần chúng Việt Nam khiến họ gần gũi với nước Pháp thì những người xu hướng Trotskij do Tạ Thu Thâu dẫn đầu, không ngần ngại xúi dục dân bản địa nổi dậy nhằm lợi dụng một cuộc chiến tranh có thể nổ ra để dành tự do hoàn toàn. (123)

Thế nhưng thái độ xu hướng Tạ Thu Thâu lại đáp ứng cảm tình dân chúng. Dân chúng xưa nay ghét vụ bắt đi lính. Chiến dịch tuyển thêm 20.000 lính tập làm tăng thêm lòng thù hận đó. Những cuộc lộn xộn tại các trung tâm rút thăm, những vụ tự hủy hoại thân thế, tòa xử kêu án những người xúi dục không đi lính chứng tỏ lòng oán ghét trong dân chúng.

Vì đã ủng hộ việc ‘’Phòng thủ Đông Dương’’ và nỗ lực phục vụ chiến tranh cùng với phái lập hiến mà phái Đệ Tam sẽ bị thất bại trong cuộc bầu cử Hội Đồng Quản Hạt tháng 4 năm 1939.

Báo chí chữ Quốc Ngữ tương đối tự do

Cuối năm 1938 sang đầu năm 1939 tại Nam Kỳ báo chí và xuất bản được nới lỏng đặc biệt: Sắc Luật Daladier ngày 30 tháng 8 năm 1938 cho báo chí chữ Quốc Ngữ được xuất bản không cần xin phép trước. Kiểm duyệt vắng bóng, không thấy báo bị tịch thu, Sắc Luật Perrier hầu như bị lãng quên.

Những người Đệ Tứ tăng gia nỗ lực vội vã vì e tự do tương đối này không kéo dài được bao lâu. Không đợi Tạ Thu Thâu ra tù, tờ Tranh Đấu - đến giờ là La Lutte toàn tiếng Pháp - từ nay ngày 9 tháng 10 năm 1938 bắt đầu ra bằng hai thứ tiếng. Báo tiếp tục bảo vệ quyền lợi thợ thuyền cùng nông dân nghèo đói đã đi cướp kho thóc trong Tỉnh Bặc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau, Sóc Trăng, đồng thời bày tỏ quan điểm đối với Moscou.

Giờ đây tờ báo mang tiêu đề ‘’Đã đến lúc phải tấn công chống chủ nghĩa Stalin trên môi trường quốc tế’’ (Trotskij). Mấy nhà xuất bản của nhóm này như Văn Hóa Thơ Xã đã cho ra tập sách của Tạ Thu Thâu: Từ Đệ Nhất Quốc Tế đến Đệ Tứ Quốc Tế.

Nhóm Tháng Mười với Hồ Hữu Tường, xuất bản tờ tuần san nghiệp đoàn Thầy Thợ ngày 27 tháng 10 năm 1938, được các chiến sĩ trong các cơ quan Bưu Điện, Giáo Dục, Công Chính và Đường Sắt ủng hộ. Vào tháng 9 năm 1938 lại cho tái bản tờ nguyệt san Tháng Mười đã vắng mặt từ các cuộc bắt bớ năm 1932. Tháng giêng năm 1939 tạp chí Tháng Mười đăng các điều lệ Đệ Tứ Quốc Tế, được công bố ngày 3 tháng 9 năm 1938 tại Fréjus (Pháp). Qua tháng 2, đăng những luận thuyết về cách mạng thường trực áp dụng ở Đông Dương và một bản kêu gọi tất cả những chiến sĩ Đệ Tứ rải rác ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ hợp nhất lại trong một đảng Đệ Tứ Quốc Tế. Nhóm Tháng Mười cho xuất bản sách chữ Quốc Ngữ trong bộ sách Tia Sáng như: Quốc Tế Cộng Sản trong cuộc chiến tranh Tàu-Nhật, Phái Stalin và Liên Bang Sô Viết, Liên Bang Sô Viết năm 1937, Nếu không có Mặt Trận Bình Dân. Tiến tới thành lập nghiệp đoàn, Từ chủ nghĩa Karl Marx tới chủ nghĩa hòa bình, Ai đã làm thất bại cuộc cách mạng Tàu?...Nhiều cuốn bị cấm.

Ngày 13 tháng giêng năm 1939, nhóm này tung ra tờ báo chiến đấu, Tia Sáng, nhắm tới các cuộc tuyển cử sắp tổ chức.

Các nhóm tổ chức chính trị gần gũi Đệ Tứ thành hình ở Hà Nội, như nhóm Tia Sáng đã đăng những bài chống chiến tranh trên tờ báo Thời Đàm, nhóm Chim Ưng đỏ xuất bản Con đường thanh niên.

Trong thời kỳ sôi nổi này, báo chí xu hướng Trotskij phát hành tại nhiều điểm: Tại Bắc Kỳ có nhà sách Trương Văn Nha ở Bắc Ninh; tại Trung Kỳ có các hiệu sách Vương Công ở Quảng Ngãi và ở Mỹ Liên ở Quy Nhơn; tại Nam Kỳ ở các nơi như Tân An, Bến Tre, Rạch Giá, Long Xuyên, Hà Tiên, Châu Đốc, Thủ Dầu Một, Sa Đéc, Sóc Trăng, Vũng Tàu, Biên Hòa, Tây Ninh, Bà Rịa...

Đệ Tam và Đệ Tứ đối đầu trong cuộc tuyển cử hội đồng quản hạt tháng 4 năm 1939

Lúc đó ở Sài Gòn người ta gọi Đệ Tam những người theo Stalin và Đệ Tứ những người theo Trotskij. Hai tháng trước ngày tuyển cử Hội Đồng Quản Hạt, nhằm giáp Tết cổ truyền, ngày 16 tháng 2 năm 1939, Tạ Thu Thâu và Nguyễn Văn Tạo, ở tù gần mãn hai năm được thả. Nguyễn An Ninh được ra ngày 3 tháng 3. Nhóm Tranh Đấu Đệ Tứ Quốc Tế và nhóm Dân Chúng (phái Stalin) đối thủ tại hai trong năm khu vực tuyển cử.

Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch và Phan Văn Hùm, trong khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn, Tân An và Mỹ Tho; Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Số và Phan Văn Chánh trong các Tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh và Côn Đảo, họ ứng cử chống lại sổ phái tư sản lập hiến và sổ Mặt Trận Dân Chủ của Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh và Dương bạch Mai.

Nhóm Đệ Tứ tập trung tuyên truyền cần thiết thành lập một ‘’Mặt trận thợ thuyền và dân cày’’ chống chiến tranh, chống thành lập quỹ quốc phòng, chống tăng các sắc thuế cùng là thuế cung cấp quân nhu, chống cưỡng bách tuyển mộ số lính tập bổ sung. Kể từ ngày 11 tháng 3, chừng ba chục nhà báo trong Hội Nhà Báo An Nam ở Nam Kỳ, tập hợp do Phan Văn Hùm chủ tọa, tuyên bố hưởng ứng nhóm Đệ Tứ.

Ngày 24 và 31 tháng 3, báo Tranh Đấu-La Lutte của nhóm Đệ Tứ đăng bản chương trình tuyển cử, đề án cách mạng và một bản tuyên ngôn.

Bản Tuyên Ngôn biện minh tại sao nhóm Đệ Tứ tham gia cuộc tuyển cử: ‘’Hội Đồng Quản Hạt là một nghị viện trò hề chẳng có một quyền gì thuộc lập pháp và chỉ do một thiểu số bầu ra. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua cơ hội đấu tranh này’’. Bản Tuyên Ngôn đả kích phái lập hiến là những kẻ thờ ơ với cảnh nghèo nàn, cảnh kẻ đói khát bị bóc lột, và đả kích phái Đệ Tam là những kẻ thừa hưởng cuộc Cách Mạng của Lenin và Trotskij nhưng đã phá hủy ngay thành quả. Bản Tuyên Ngôn nhắc lại trách nhiệm các đảng viên cộng sản theo Stalin trong các cuộc đấu tranh thất bại của vô sản Đức năm 1923 và 1933, ở Estonia năm 1924, ở Trung Quốc năm 1925-1927, ở Tây Ban Nha năm 1936-1939, tố cáo các vụ án quái gở ở Moscou mà ‘’giới lao động toàn thể giới đã nhận thức tính quái đản của trò ảo thuật’’. Thế nhưng phái theo Stalin ở Đông Dương vẫn lập đi lập lại những lời vu khống do Moscou bịa ra. Họ cổ động ‘’phòng thủ Đông Dương trong khuôn khổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và thống nhất quốc gia’’, phái Đệ Tam toan biến những kẻ bị bóc lột ở Đông Dương trở thành vừa là công cụ vừa là nạn nhân của chính sách ngoại giao Nga.

Chương trình nhóm Đệ Tứ cổ vũ thành lập một Quốc Hội lập hiến Đông Dương theo lối phổ thông bầu phiếu, đòi ban hành những quyền tự do dân chủ và ân xá tù chính trị. Về mặt kinh tế xã hội, đòi tuần lễ làm 40 giờ có bảo hiểm xã hội, có trợ cấp thất nghiệp, đòi xây dựng trường học, bệnh viện, nhà ở rẻ tiền, đòi bảo hộ quyền lợi cho các tiểu viên chức, tiểu thương, tiểu thủ công, tiểu chủ; đòi hủy nợ và địa tô cho dân cày nghèo trong thời gian khủng hoảng; miễn thuế cho những nông dân có từ 5 mẫu trở xuống; phân đất công cho những người không có ruộng đất, bỏ thuế thân, bỏ thuế trâu bò, bỏ độc quyền về muối, thuốc lá và rượu, v.v...

Đề án cách mạng hướng tới xã hội chủ nghĩa quốc tế bao gồm những giai đoạn như sau: Lập các Ủy ban nhà máy và Ủy ban nông dân để kiểm soát hoạt động của ngân hàng, các xí nghiệp kỹ nghệ, nông nghiệp, thương mại; sau đó quốc hữu hóa ngân hàng, kỹ nghệ nặng, các nông doanh lớn, vận tải và bưu điện, và giao cho giai cấp vô sản quản lý; phân bố đất đai của ngân hàng, Nhà Thờ và điền chủ cho nông dân nghèo; giao cho các Ủy ban nông dân nhiệm vụ triệt tiêu sự bóc lột phong kiến; chống chiến tranh, dự kiến thành lập lâu dài một Liên Bang Sô Viết Á Châu; thiết lập nạn chuyên chính vô sản dưới hính thức một chính quyền do thợ thuyền và nông dân lãnh đạo.

Một chương trình như thế sẽ không được lòng nhiều cử tri (cử tri toàn là những người có đóng thuế), nhưng đắc cử hay không không hề gì miễn là niềm hy vọng lớn lao được ăn sâu vào đầu óc quần chúng.

Áp phích và truyền đơn hỗ trợ cuộc cổ động tuyển cử, tố cáo công trái và phản đối những khoản thuế mới và thuế suất để dự bị chiến tranh.

Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch đắc cử mặc dù họ bị cấm họp mít ting; sổ ‘’Mặt Trận Dân Chủ’’ của phái Đệ Tam thất bại khắp nơi; những cử tri bất mãn đã quy họ là ‘’đi theo chính quyền’’.

Báo Đông Phương thả sức nói: Ngày 31 tháng 5, lập lại bài học thuộc lòng, tờ báo lên án những người Đệ Tứ là kẻ thù của giai cấp nông dân. Trotskij cổ xúy chuyên chính vô sản để trấn áp nông dân. Đệ Tứ Quốc Tế xúi dục nông dân chống lại giai cấp vô sản và chống lại cách mạng. (124)

Trong một tờ truyền đơn vận động tuyển cử, đảng cộng sản Đông Dương, lắt lèo hai từ địa chủ để nói:

Thâu, Hùm cổ xúy tịch thu ruộng đất và của cải của địa chủ. Hầu hết dân chúng ở xứ này chỉ sinh sống trong những thửa đất 5 mẫu hoặc 3 mẫu; nếu như người ta tịch thu của họ thì thử hỏi họ lấy gì để nuôi sống vợ con?

Tờ Tranh Đấu ngày 2 tháng 6 lên tiếng thách thức Ban Biên Tập tờ Dân Chúng và Đông Phương hãy đưa ra một tài liệu nào chứng tỏ nhóm xu hướng Trotskij có những sáng kiến kỳ lạ như thế. Rồi trong bài ‘’Đệ Tứ Quốc Tế và giai cấp nông dân’’, những người Đệ Tứ lại giải thích lập trường của họ:

Mục đích Đệ Tứ Quốc Tế là lật đổ chế độ tư bản bằng cách mạng vô sản. Đề đạt mục đích đó, giai cấp vô sản phải liên minh với một bộ phận của giai cấp nông dân, nghĩa là với những tiểu chủ và những nông dân nghèo.

Mặc dầu bị cấm lưu trú tại Sài Gòn, Tạ Thu Thâu vẫn được phép tham dự những phiên họp của Hội Đồng Thành Phố và Hội Đồng Quản Hạt. Ba anh hội đồng sổ Tranh Đấu đắc cử từ nay sẽ tiếp xúc được những tài liệu chính thức để dựa vào đó mà chống lại bộ máy cai trị thực dân. Đại Hội Đồng Kinh Tế đã bỏ thăm chuẩn y một khoản thu nhập phụ thêm là 10 triệu đồng cho quỹ phòng thủ quốc gia. Tờ Tranh Đấu cùng tờ Tia Sáng nhân đó tăng cường cổ động chống những khoản thuế mới và thuế suất để tăng số 10 triệu ấy, và tiếp tục tố cáo phái Đệ Tam hợp tác đồng lõa chính quyền thực dân.

Nguyễn ái Quốc chỉ thị đảng cộng sản Đông Dương ‘’thanh toán về chính trị’’ những người xu hướng Trotskij.’’

Ngày 10 tháng 5 năm 1939, Nguyễn ái Quốc sau này là Hồ chí Minh, không vừa lòng khi thấy ảnh hưởng phái Đệ Tứ lan rộng, liền phản ứng trước sự thất bại của đảng cộng sản Đông Dương. Trong một bức thư - ký bí danh Line - từ Trung Quốc gửi về cho ‘’các đồng chí thân mến’’ ở Bắc Kỳ, nói về ‘’bộ mặt ghê tởm của chủ nghĩa Trotskij và của những kẻ theo xu hướng ấy’’. Đó là một bức thư đầu tiên trong loạt ba ‘’bài học’’ ngày càng gay gắt mà ít lâu sau đó đã được đăng trên tờ Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta), tờ báo của phái Stalin ở Hà Nội. Vào tháng 7, trong một báo cáo cho Quốc Tế Cộng Sản, Nguyễn ái Quốc lại bày tỏ lòng trung thành với quan điểm của Moscou:

Đối với bọn xu hướng theo Trotskij, không thể liên minh cũng không tha khoan nhượng. Phải lột mặt nạ của chúng bằng mọi cách, coi chúng như tay sai của chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về mặt chính trị.

Nếu ai đọc qua ba bức thư, thì hiển nhiên thơ đó kêu gọi ám sát những người theo xu hướng Trotskij. Đao thủ của Hồ chí Minh sẽ tuân theo, họ sẽ hạ sát những người cách mạng tư tưởng theo Trotskij năm 1945, liền khi họ nắm được chính quyền.

CHÚ THÍCH

119.- Vùng Phước Long (Rạch Giá), ngày 3 tháng 9.1938, khoảng 1500 dân cư làng Vĩnh Phú, Vinh Lợi, Vĩnh Quới, Mỹ Quới, phần đông là đàn bà và trẻ con kéo nhau đến Quận Phước Long xin cầu cứu than đói và không tìm được việc làm. Chủ Quận Trinh phát cho người nầy 5 xu, người kia 10 xu, nhận 64 người đàn ông để vét mương gần bên chợ trả 0,60$ một ngày. Qua mấy ngày sau, 700 người được tạm thâu 0,57$ một ngày, còn 500 người khác không được nhận. Ngày 10, ông Trinh đuổi hết 700 người rồi cáo bịnh khóa cửa văn phòng...

Nông dân miền Tây tột mức cùng khổ, náo động nhiều nơi như ở Cổ Cò, Phong Thạnh, Tỉnh Sóc Trăng - Bặc Liêu. Ở Cổ Cò, độ một trăm dân đói, phần đông là người Khmer, đàn bà và kỳ lão, kéo đến đồn điền Lê Văn Châu toan khai vựa lúa. Ở Bặc Liêu, trong một tuần lễ, dân nghèo chiếm lối mươi vựa thóc. Ngày 15 tháng 9, bốn chục tá điền của Dương Khanh kéo đến quận để cáo tên nầy đã thâu đoạt hết lúa mùa của họ. Nhưng chủ quận Giá Ray, quan chức nào dám đá động đến quyền tài sản tư hữu thần thánh. Qua ngày 6 tháng 10, tên đại điền chủ Dương Khanh xám mặt trước cảnh 300 dân đói già có trẻ có, lao nhao đàn bà trẻ con, ùng đến khai vựa thóc của y khuân ráo 500 giạ lúa chứa ở đó.

Giữa Thị Xã Cà Mau, 500 nông dân đói biểu tình ngày 4 tháng 10 kêu cứu, bị lính táo bạo giải tán, nhiều chiếc xuồng bị đắm, nhiều nông dân bị thương. Đại biểu của họ bị bắt. Nhiều người buôn bán động lòng mua cả thúng bánh mì phân phát cho dân đói. Một bà điền chủ bố thí độ một trăm đồng bạc.

Ngày 7 tháng 10, lính giải tán 400 nông dân ở Rạch Rang, và bắt 45 người trong khi họ khai vựa lúa của Lý Chiêu. Ở Long Tron, 300 dân đói kéo đến vựa lúa của xã Thiêng, nhưng bị lính giải tán. Tại Cái Cung, 400 nông dân mở vựa lúa của bà Nguyễn Xon...Từ 6 tới 8 tháng 10, nông dân Phước Long (Rạch Giá) thu hồi lúa trong các đồn điền người Pháp Savary, Hoareau, Caussin, Fernand Godara. (La Dépêche d'Indochine, 19, 28.9 và 8, 11.10.1938)

Liền theo đó, Tòa Án Rạch Giá nhóm ngày 12 tháng 10, kêu án 45 nông dân Phong Phú từ 1 đến 2 năm tù, về tội ‘’phạm quyền tư hữu tài sản’’, 27 người 1 năm tù, 3 người 8 tháng và 3 người 8 tháng. Cũng tòa án ấy kêu án 41 anh dân cày Mỹ Hội từ 2 tới 6 tháng tù. (Tranh đấu, 22 tháng chạp 1938).

Phóng viên báo Tranh Đấu cùng ba nhà báo khác ở Sài Gòn đến điều tra trong vùng đều bị bắt giam ở Bặc Liêu từ tháng 10, họ bãi thực làm reo đến tháng giêng 1939 mới được thả.

120.- Jacob Moneta, Le PCF et la question coloniale 1920-1965 (Đảng Cộng Sản Pháp và vấn đề thuộc địa 1920-1965), Paris 1971, trang 130.

121.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. Slotfom III 59.

122.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. Slotfom III 29: Trích dẫn bản chữ Quốc Ngữ Thay lời anh bạn Bắc Giang đáp lại phái Stalin, kèm theo bức thư của Toàn Quyền Brévié gửi cho Bộ Trưởng Thuộc Địa ngày 18.5.1938.

123.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. NF 330.

124.- Sự cáo buộc vô lý. Trotski quan tâm tới vấn đề nông dân từ năm 1919. Vào tháng 2 năm 1920, khi còn đấu tranh trong nội bộ đảng cộng sản, Trotski đã đề nghị với Ban trung ương nên hủy bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa mà người nông dân cảm thấy như một sự áp bức và làm cho họ không muốn sản xuất thêm quá mức nhu cầu của gia đình, do đó phương hại tới cơ sở của chính sách lương thực của đất nước. Sau đó người ta thay thế chế độ trưng thu bằng một chế độ hợp lý hơn, không thô bạo, đó là thuế lũy tiến, dù rằng có tính tõ lệ theo số thu hoạch nông nghiệp cũng làm lợi cho nông dân hơn và khuyân khích họ mở rộng việc trồng trọt và chăn nuôi. Đồng thời người ta cũng chú ý cung cấp cho mỗi một đơn vị sản xuất những sản phẩm công nghiệp hữu dụng tương đương với số sản phẩm lương thực mà nông dân giao. Một năm sau, Lênin cũng đua ra đề nghị tương tự tại Bộ chính trị và Ban trung ương bắt tay vào nghiên cứu, nhưng ngày 3 tháng 3 năm 1921 nổ ra cuộc lính thủy nổi dậy ở Cronstadt. Từ nhiều tuần Petrograd’’không được tiếp tế lương thực nữa.