← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XVI ĐÀN ÁP CHIẾN TRANH---

Năm 1939 đồng bạc lại mất giá - số bạc giấy lưu thông 250 triệu, nghĩa là 80 triệu hơn năm 1938 - các sắc thuế má và thuế suất phục vụ chiến tranh gia tăng và do đó mức giá sinh hoạt cao thêm. Thợ và phu luôn luôn đòi tăng lương và đòi áp dụng quy chế lao động do chính phủ Léon Blum ban hành. Ngoài những yêu sách kinh tế, mọi người thường xuyên đòi bọn cai và giám thị đang lộng hành bỏ thái độ vũ phu. Giới chủ Pháp, Hoa và An Nam vẫn cố cưỡng không thi hành các quyền lợi mà giới lao động đã giành được.

Ở Nam Kỳ từ đầu năm tính ra khoảng hai chục cuộc bãi công tương đối lớn: Thợ giặt Sài Gòn, cu-li các xưởng xà phòng Chợ Lớn, phu khuân vác trong các nhà máy gạo của người Hoa đòi tăng từ 15 đồng lên 20 đồng tiến công khuân vác một ngàn bao gạo; thợ thổi thủy tinh trong các xưởng làm ve chai, thợ cưa xẻ gỗ ở Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Chợ Lớn; thợ xắp chữ tại nhà in Tistle; thợ đập đá ở Nước Ngọt...đều ngưng làm việc.

Ta dừng lại ít phút nhìn qua phu hốt rác và đổ thùng ở Sài Gòn bãi công. Đêm nào họ cũng phải đi đổ những thùng phẩn khắp thành phố. Theo báo Tia Sáng, ngày 18 tháng 5 năm 1939, phu sở thùng làm reo, họ đòi tăng lương 20%, hàng năm 10 ngày nghỉ có lương, khi ốm được vào bệnh viện và được trả lương, sắp đặt phòng nước tắm gội và phát xà phòng hàng tháng, không còn bắt bồi thường những mảnh kiếng đèn xe bò của họ bị vỡ. Ngày 22, thanh tra lao động can thiệp, chủ sở thùng nhượng bộ mọi điểm trừ tăng lương. Ngày 7 tháng 7, họ lại bãi công đòi tăng lương, đòi trả tiền cho đêm bãi công đầu tiên, đòi nghỉ chủ nhật có lương và đòi công nhận các đại biểu. Quả là quá quắt, và thế là 9 phu hốt rác và đổ thùng bị kêu án từ 3 đến 4 tháng tù vì ‘’bạo động, bãi công không báo trước và xúi giục bãi công’’.

Ngày 8 tháng 6, một cuộc bãi công kịch liệt hơn nổ ra ở Sở Ba Son, chỉ cần tranh đấu ngắn ngủi trong cơ sở Thủy Binh này là có thể đạt được những điều đòi hỏi về tăng lương và hủy bỏ phạt bằng lối cúp tiền.

Ở Bắc Kỳ, cùng trong thời gian đó, khoảng 3.000 nam nữ công nhân dệt và kéo sợi và 1.000 phu bến tàu Hải Phòng bãi công.

Chính quyền thực dân trong tình trạng báo động phản công dữ dội, chủ yếu tấn công vào cơ quan đầu não phong trào chính trị. Không những báo chí và các tổ chức xu hướng Trotskij hay Stalin cũng như bất kỳ tờ báo nào có ý phê phán chính quyền; các liên hiệp bí mật của thợ thuyền và nông dân mà mật thám đã chú ý từ trước nhưng được thực dân dung túng, bấy giờ đều bị đối xử nghiêm khắc như nhau.

Trước hết ở Bắc Kỳ, từ ngày 28 tháng 4: Thái Văn Tam, Nguyễn Uyển Diễm và Bùi Duy Từ biên tập tờ Thời Đàm cũng xuất bản với biểu trưng của Đệ Tứ Quốc Tế. Tam bị kết án 5 tháng tù, mấy người kia 15 ngày tù, vì những bài báo phản đối chiến tranh đế quốc, nhất là trong số 7, họ kêu gọi thợ thuyền và nông dân nhằm mục đích trên, hãy tập hợp những ‘’ủy ban nhân dân thống nhất trong một mặt trận đấu tranh cho cơm áo, tự do và dân chủ, những ủy ban mà khi có cơ hội thuận lợi sẽ trở thành Sô Viết, cơ sở một chính phủ công nông’’ (Thái Văn Tam sau nầy, thời gian chiến tranh, anh chết trong ngục ở Trung Kỳ). Ở Bắc Ninh, sách báo xu hướng Đệ Tứ Quốc Tế bị tịch thu.

Ở Nam Kỳ, cùng ngày cuộc bãi công nổ ra ở Sở Ba Son, mật thám đổ đi lục soát các nơi xuất bản báo chí Đệ Tứ và Đệ Tam, bắt Nguyễn Văn Quá quản lý tờ Tranh Đấu, Ganofsky và Đào Hưng Long chủ nhiệm báo Tia Sáng và tạp chí Tháng Mười, Huỳnh Văn Thanh đứng tên báo Dân Chúng. Đồng thời mật thám cũng lục soát nhà Hồ Hữu Tường ở ĐaKao, sau đó ngày 10 và 14 tháng 6, khám xét hai nhà in trong thành phố và trụ sở tờ Tranh Đấu một lần nữa, tịch thu bản thảo tờ áp phích thông cáo chương trình tuyển cử tháng 4. Ngày hôm sau, mật thám gọi các ứng cử viên Đệ Tứ trong cuộc tuyển cử Hội Đồng Quản Hạt đến sở xét hỏi về thái độ họ phản đối công việc chuẩn bị chiến tranh và phản đối lập quỹ phòng thủ Đông Dương. Tiếp theo là ba người bị bắt giam: Lê Chánh Đính ở tờ Tia Sáng ngày 26, rồi ngày 28 đến lượt Nguyễn Văn Tiến, quản lý mới tờ Tranh Đấu và Phan Văn Hùm, người đã nhận trách nhiệm về tấm áp phích nói trên. Hùm tuyệt thực làm reo đến mức phải chở vô nhà thương Chợ Quán.

Trần Văn Thạch đánh điện tín cho Bộ Trưởng Thuộc Địa Mandel, cho Andrée Viollis...: ‘’Năm người quản lý báo, Phan Văn Hùm, Hội Đồng Quản Hạt, bị bắt. Chúng tôi phản đối đàn áp.’’

Ngày 3 tháng 7, Văn Phòng Paris bảo vệ các dân tộc thuộc địa (Marc Casati, Colette Andry, R-J. Longuet, Félicien Challaye, Daniel Guérin, Robert Louzon, Gérard Rosenthal, Léon Werth...) lên tiếng phản đối cùng Trần Văn Thạch. Chúng ta sẽ thấy Phan Văn Hùm tại vụ án xử nhóm Tranh Đấu ngày 5 tháng 10, anh tuyệt thực làm reo đòi tự do tạm thời không hiệu quả.

Cuộc đàn áp vẫn tiếp tục. Đêm 13 rạng ngày 14 tháng 7, trong khi nhóm Đệ Tứ đang cho in 3000 bản tờ Tranh Đấu tại nhà in bà Diệp Văn Kỳ, mật thám sục đến tịch thu và bắt Phan Văn Chánh, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Nam và Cao Thượng Thinh, cộng tác viên mới.

Cũng trong đêm đó, người ta biểu tình trước Dinh Toàn Quyền đòi ân xá tù chính trị, đòi hủy bỏ thuế thân, giảm các thứ thuế khác, tự do nghiệp đoàn và các quyền tự do dân chủ khác.

Ngày 4 tháng 8, Trần Văn Thạch, Thư Ký Hội Người Viết Báo An Nam ở Nam Kỳ, chiêu tập các nhà báo, các ứng của viên trúng cử, các nhà tríthức, các đảng viên Đảng Xã Hội Pháp...để phản đối thái độ tàn bạo đốivới báo chí sau một năm tương đối tự do xuất bản bằng bằng Quốc Ngữ.Ngày 27 tháng 8 họ nhóm nhau biểu tình tại khách sạn Naxion. NguyễnVăn Sâm, lập hiến, lại lên tiếng mỉa mai Sắc Luật Perrier như một lưỡigươm Damocles thường xuyên treo lơ lửng trên đầu các nhà báo. TrầnVăn Thạch tố cáo các vụ truy tố báo chí đang tiến hành và kêu gọi hànhđộng cách mạng chống lại cuộc chiến tranh sắp tới.

Tờ Tranh Đấu bị tịch thu, các tờ báo cảm tình đón mời Tạ Thu Thâu cùng các bạn đăng bài trong tờ Dân Mới, Sanh Hoạt và Sự Thật. Trongkhi đó nhóm Bolsheviks-Leninismenscho lưu hành bí mật tờ Cách Mạng.Chủ nhiệm tờ Dân Mới là Phan Văn Thiết bị bắt rồi ngày 19 tháng 9 bịkết án 4 năm tù và bị tước quyền công dân vì tội thường lệ là ‘’hoạt độngkhuynh phúc bằng con đường báo chí’’.

Cuộc đàn áp cũng không tha những kẻ đã ủng hộ ‘’phòng thủ Đông Dương’’: Một người viết báo Dân Chúng, bốn người viết tờ Lao Động đều bị kết án ngày 12 tháng 8, và tập sách Phòng Thủ Đông Dương củahọ bị tịch thu. Số phận trớ trêu thay.

Hiệp Ước Hitler-Stalin và chiến tranh

Stalin vừa thay đổi phe phái đồng minh. Ngày 22 tháng 8 năm 1939, sứgiả Đức Quốc Xã, Von Ribbentrop tới Phi Trường Moscou, ở đấy phất phới cờ phát-xít chữ vạn thập ngoặc. Liền trong đêm 23 rạng ngày 24 sứgiả ký với Molotov một ‘’Hiệp Ước Sô-Đức không tấn công lẫn nhau’’. Thế là Hitler được rảnh tay.

Một hiệp định thư bí mật, sau này phát lộ trong vụ án Nuremberg(1945), phân chia giữa Đức và Liên Sô‘’những vùng ảnhhưởng tại Đông Âu’’, trong đó có gợi ý việc chia xẻ xứ Ba Lan. (125)

Ngày 1 tháng 9 năm 1930 quân đội quốc xã tiến vào Ba Lan. Ở Pháp và ở Đông Dương liền ban hành lệnh tổng động viên. Ngày 3, nước Phápvà nước Anh tuyên chiến với Đức. Ngày 17, quân đội Nga xâm nhập Ba Lan, một nước hầu như đã bại trận, rồi chiếm đóng miền đất phíaĐông. Trotskij lên tiếng ngày 19 ở Mexico như sau:

Ngày nay quả là dễ hiểu các vụ án Moscou - thủ tiêu những người Bolshevik kỳ cựu, cáo họ là hợp tác với quốc xã - chỉ là một trò hóa trang che đậy việc Stalin chuẩn bị liên minh với Hitler. Hồng quân được lệnh phải chiến thắng ở Ba Lan, thắng những kẻ mà Hitler đã đánh bại. Con sói ở Điện Kremlin đã buộc Hồngquân thi hành nhiệm vụ khốn nạn và trọng tội đó. (126)

Ngày 25 tháng 9, đảng cộng sản bị cấm hoạt động ở Pháp. Ngày 28 Toàn Quyền Đông Dương hưởng ứng lệnh cấm đó, điều 3 của sắc lệnhđó nêu:

Đều bị cấm lưu hành, phân phối, phát không, bán, bày ra nơi công cộng và việc lưu giữ nhằm mục đích phân phối, phát không,bán hay bày những bài viết có định kỳ hay không, những bản vẽ,và nói chung, mọi tài liệu truyền bá nhằm tuyên truyền nhữngkhẩu hiệu của Đệ Tam Quốc Tế và của những tổ chức có liên quanvới nó.

Ngày 29, mật thám tiến hành vây ráp khắp nơi trong toàn xứ. Chỉ trong vài ngày 323 vụ lục soát; 2.332 cuốn sách và 26.316 ấn phẩm báochí bị tịch thu tại nhà các chiến sĩ, trong các hiệu sách, điểm bán hàngvà các nhà in 127. Bị bắt giam 176 người, trong đó có 121 người theo pháiStalin và 55 người xu hướng Trotskij hoặc cảm tình.

Các nghị định giải tán ban ra như mưa sa: Ngày 2 tháng 10 đến ngày 5, đều là Hội các người viết báo, tiếp đó Hội ái hữu thợ giặt Bắc Kỳ, ủy ban đại biểu công nhân khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn...Những ngày 7 và10 trong tháng đó, các tờ báo hằng tuần của nhóm Đệ Tứ như Tranh Đấu, Thày Thợ, Tháng Mười, Tia Sáng; những tờ cảm tình như DânMới, Sự Thật, Sinh Hoạt, Nhựt Báo, Hy Sanh đều bị cấm. Cả đến nhữngbáo của phái Đệ Tam như Dân Chúng, Đông Phương và những ấn phẩmkhác.

Nguyễn Văn Số, ho lao đang được tự do có điều kiện, bị tống trở vào khám lớn, rồi Trần Văn Thạch, Phan Văn Hoa, Hồ Hữu Tường cũng nối gót.

Nguyễn An Ninh bị bắt đầu tháng 10 năm 1939. Đền lượt Tạ Thu Thâu bị bắt ở Bangkok, cuối tháng 10, nơi anh đang chữa bệnh liệt một phần thânbên phải. Kế đó, cảnh sát Anh quốc giao Thâu cho mật thám Pháp. Đúng vàongày 23 tháng 10, trong tù ba người Đệ Tứ đắc cử Hội Đồng Quản Hạt đượctin cuộc bầu cử hội đồng của họ bị hủy.

Tại Phnom Pênh, khoảng hai chục người An Nam lưu trú (phần đông là người Nam Kỳ), trong đó có hai phóng viên báo Tia Sáng, anh thợ sửa máychữ Từ Văn Hơn và Ngô Văn Xuyến. Phần đông bị bắt ngày 4 tháng 10, tớicuối tháng bị trục xuất về Nam Kỳ. Riêng Xuyết lại bị giải về nhà tù Mỹ Tho. (128)

Đưa ra trước bồi thẩm người Ấn Độ quốc tịch Pháp - Xuyết bị hắn công kích bằng thứ ngôn ngữ hoa mỹ theo giọng Chưởng Lý Vysenski trong cácvụ án Moscou: ‘’A! Trotskisme, bọn phá hoại!’’. Qua tháng 11, Xuyết bị kếtán 8 tháng tù vì tội ‘’hoạt động khuynh phúc chính quyền’’. Chứng cứ chỉlà một bức thư gửi cho bạn anh là Cảnh, trong có giới thiệu hai cuốn sáchcủa Trotskij: Cách mạng thường trực và Quốc tế cộng sản sau Lenin. Cảnhbị 6 tháng tù.

Cuộc đấu tranh chống chiến tranh tiếp tục

Những người Đệ Tứ bí mật không tên tuổi vẫn tiếp tục hoạt động. Sau khi Trần Văn Sĩ bị bắt, các chiến sĩ ở Thủ Dầu Một tập hợp xung quanh anh vànhóm Quốc Tế công nhân của Ngô Chỉnh Phến ở Gia Định đều gia nhậpvào nhóm Bolsheviks-Leninismens, và tờ Cách Mạng số 2 số 3 được phát hành. Bọn mật thám đặc biệt tìm mãi không ra nơi in ấn báo Cách Mạng,nhưng chúng tịch thu được nhiều tài liệu tuyên truyền tại Cây Quéo, trongnhà của Đoàn Văn Trương, lập tức Trương bị bắt.

Ngày 10 tháng 9, những người thuộc nhóm Bolsheviks-Leninismens phát truyền đơn cho lính tập ở Thủ Dầu Một, kêu gọi họ trở súng: ‘’Chớ bắn vào những người bạncông nhân của mình trong hàng ngũ quân đội bên kia; hãy quay súng lạibắn bọn đế quốc ngay trong xứ’’. Họ thành lập những ủy ban từng ba ngườinhiệm vụ tuyên truyền ở tỉnh phản đối tuyển binh. (129)

Đấy là một vài trường hợp phản kháng tuyển mộ lính và những vụ đàn áp liên tục trong mấy tháng cuối năm 1939:

Tháng 11, Tòa Tiểu Hình kêu án Lê Văn Tiêu và Võ Văn Sai, 3 năm tù và 10 năm biệt xứ vì đã ‘’tích cực tuyên truyền đồng bào chống Pháp, xúi giục họ khước từ nghĩa vụ và tuyên bố rằng cuộc chiến hiện tại không có liênquan gì đến người An Nam’’; Lê Văn Cường ở Phú Nhuận (ngoại ô SàiGòn) cũng bị cáo như thế đó, nhưng chỉ bị một tháng tù, ‘’tòa chiếu cố đếnnhững việc làm phải của bà nội Cường trước kia đã cống hiến nhiều cho địaphương’’; bốn nông dân ở Tân Sơn Nhì và Bà Điểm bị án từ 8 tháng đến 2năm tù vì đã chống đối việc bắt thêm đi lính.

Tháng chạp 1939, tòa kêu án Nguyễn Văn Tường 2 năm tù và 5 năm biệt xứ vì anh vận động thanh niên muốn đăng lính bỏ về; và có khoảng 15nông dân ở Phước Lai (Gia Định) bị án từ 1 đến 4 năm tù vì đã tham giacùng 150 dân làng biểu tình phản đối mộ lính.

Các nhóm Đệ Tứ bị mất người dẫn đầu, thế nhưng ‘’người ta vẫn tiếp tục không tham gia rút thăm đi lính’’. (130) Ngày 7 tháng 11, truyền đơn phản đốiđi lính rải khắp Sài Gòn- Chợ Lớn và trong Tỉnh Gia Định, in bằng chữ nhà in. Lại có những truyền đơn in mực đỏ, luôn luôn vẫn chống tuyển mộ lính,xuất hiện ngày 12 tháng chạp 1939, rồi trong đêm 5 rạng ngày 6 tháng 2 năm 1940 lại tung ra tại Sài Gòn tại ngoại ô Gia Định và ở Thủ Dầu Một. (131)

Tháng 11 năm 1939 nhiều tờ báo mới của nhóm Đệ Tứ xuất hiện: Tiếng Thợ, Công Nông, Cộng Sản. Trụ sở bí mật của họ bị lục soát ngày 26 thángchạp 1939 và 23 tháng 2 năm 1940. Trong số những tài liệu mật thám tịchthu có: Luận cương của nhóm Bolsheviks-Leninismens, Lời kêu gọi của Ủy ban công nôngchống đế quốc chống chiến tranh, bản điều lệ của ủy ban này và điều lệ Đệ Tứ Quốc Tế. Một trong bốn chiến sĩ bị bắt đang làm việc tại công ty dầu xăng Pháp-Á, một người khác làm ở Hội Điện Ảnh Đông Dương.

Ngày 3 tháng 4, tờ Thư Tín Đông Dương còn ghi: ‘’Truyền đơn như mưa rải trên các phố Frère Louis (Nguyễn Trãi) và d'Arras (Cống Quỳnh). Đó là những phần tử xu hướngTrotskij’’.

Những vụ án

Những vụ xử án về ‘’hoạt động lật đổ chính phủ’’liên tục không ngưng từhôm khởi đầu chiến tranh.

Ngày 5 tháng 9 năm 1939, bộ biên tập báo Tia Sáng bị kết án: Đào Hưng Long, Nguyễn Văn Cương, Lê Chánh Đính, Nguyễn Văn Nam, ônggià Ganofsky Edgar, bị án từ 2 năm tới 5 tháng tù giam, kèm theo 10 năm biệt xứ.

Ngày 13 tháng 10, đến lượt những người viết báo Tranh Đấu: Phan Văn Hùm, 5 năm tù; Phan Văn Chánh và Trần Văn Sĩ, 3 năm; Nguyễn Văn Quávà Nguyễn Văn Tiến, quản lý, 2 năm đồng như Trương Văn Hai, người phụng sự thường trực trụ sở của nhóm ở Mỹ Tho trong kỳ cổ động tuyểncử. Dĩ nhiên án tù vẫn kèm theo biệt xứ và tước quyền công dân nhưthường lệ.

Liệu năm 1940 kết thúc có bịt miệng được các nhóm chống đối hay không?

Trong vụ án ngày 9 tháng 4 năm 1940, tòa xét xử 57 người ‘’cộng sản’’(trong đó có Nguyễn Văn Sâm, lập hiến), viên Chưởng Lý cố gằng èp một sốbị cáo hối hận: Với Phan Văn Chánh, người đã có bằng toán học ở Paris,hắn nói: Ông đã có điều kiệnđạt được bằng cấp ở Pháp, thế mà ông lạimuốn đuổi người Pháp ra khỏi xứnày? Rồi đến phiên Trần Văn Thạch: Người ta đã ghi là ông có những ý đồ chống đối dữ dội đối với chính phủ, có đúng thế không? Thạch trả lời: Tôi không có nói rằng không đúng như thế. Chưởng Lý gặng tiếp:

Ông cho việc yêu cầu bãi bỏ quỹ phòng thủ quốcgia không có gì là thái độ khuynh phúc chính phủ hay sao?

Thạch đáp:

Tôi nghĩ rằng xứ tôi quá nghèo không thể chịu nổi cái gánh nặng như thế.

Ngày 16, án quyết: Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Hồ Hữu Tường vàPhan Văn Chánh: 5, 4 và 3 năm tù; Nguyễn Văn Sâm và Võ Công Tôn:3 và 4 năm; Nguyễn Thị Lựu và Nguyễn Thị Hai, bí danh Sóc: 3 năm.Tất cả đều bị kèm thêm biệt xứ 10 hoặc 5 năm và bị tước quyền côngdân. Mấy người khác bị kêu từ 3 tháng tới 3 năm tù. Có hai chục ngườiđược tha bổng, trong đó có 14 thợ giặt. Hầu như tòa phúc thẩm chuẩn yhết các án. (132)

Ngày 24 tháng 4, Tòa Tiểu Hình Sài Gòn ra lệnh xử kín, báo chí được rất ít tin tức về những vụ xử ‘’cộng sản’’. Tuy nhiên, ngày 23 tháng 5, vụ xử 82 phu đồn điền cao su Trảng Bom được mở công khai. Họ đã khước từkhông ký kết một giao kéo mới, chỉ thế thôi, mà tòa kêu án 81 người 3tháng tù giam. Một người phu đàn bà duy nhất bị cáo, tòa kêu án 2 thángtù. (133) Các sản nghiệp làm việc quốc phòng đều được quyền quá đáng là giữlại những người làm công khi giao kèo hết hạn.

Các tòa án quân sự thay phiên các tòa án dân sự, việc xử kín càng chặt chẽ, người ta chỉ được biết qua những nghị án tòa đưa ra (tuyên truyềnchống đăng lính, tự hủy hoại thân thể...).

Ngày 17 tháng 6.1940, ở Pháp Pétain xin đình chiến, sẽ ký tại Rethondes năm ngày sau. Tướng Catroux - Toàn Quyền Đông Dương thay thế Brévié từ tháng 8 năm 1939 - vừa mới cúi đầu trước Tokyo, nhận quyềnNhật kiểm soát biên giới phía Bắc Bắc Kỳ. Thế là Nhật đã đặt được bướcchân đầu tiên vào Đông Dương. Ngày 25, khi bóng cờ của xứ Mặt Trời Mọcphất phới trên mảnh đất địa cầu của đế quốc tam tài, Đô Đốc Decoux thay thế Tướng Catroux.

Trong xứ đàn áp vẫn tiếp tục không ngưng. Chúng ta hãy lưu ý là vào tháng 7, năm người Đệ Tứ bị bắt trong vụ lục soát báo Tiếng Thợ và báoCộng Sản đã bị kết án 3 và 5 năm tù kèm theo biệt xứ như thường lệ.

Nhiều tù chính trị cũ và mới vừa mãn hạn tù, những người xưa kia dính dáng ‘’hội kín Nguyễn An Ninh’’, những chức sắc có uy tín các giáo pháichính trị Cao Đài và Hòa Hảo, hàng trăm và hàng trăm người ‘’tình nghi’’do mật thám xếp vào loại ‘’những phần tử nguy hiểm cho an ninh côngcộng’’, tất cả đều bị chuyển đến các trại tập trung tại Núi Bà Rá và Tà Lài (Biên Hòa) vùng rừng sâu nước độc, hoặc bị quản thúc tại các tỉnh lỵ, cảnh sát kiểm soát thường xuyên, vô phương sinh sống. Từ 1940 đến 1945,không cần xét xử, thống trị thực dân giam cầm hoặc tống vào các ‘’đoànlao động đặc biệt’’ (formations spècíales de travailleurs), tổng cộng 1757‘’cộng sản’’ và 511 ‘’quốc gia’’. Đày đi lưu trú tại Sakalava ở phía Bắc Madagasca 17 người Đạo Cao Đài (134), hai người Đệ Tứ là Đào Hưng Long vàNgô Chỉnh Phến, cùng hai anh em Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Thế Song, bị bắt ở Bắc Kỳ.

Thiếu ăn, lao, kiết lỵ, đối xử tàn tệ, nhiều người lưu đày bỏ mạng. Nguyễn Văn Quá, quản lý cuối cùng tờ Tranh Đấu, chết vì lao sau khi hếthạn ở Côn Đảo, kiệt sức đi không muốn nổi, anh tắt thở khi tới nhà.

Nguyễn An Ninh - người đã nhờ Tạ Thu Thâu chuyển cho con trai anh lời cuối cùng của anh - qua đời năm 1943 vì kiệt sức. Trần Văn Sĩ cũng thế, bỏmình trong ngục. (135)

Trong khi những người cộng sản xu hướng Trotskij bị tống xuống tàu ra Côn Đảo chung cùng những người cộng sản phái Stalin thì Trotskij bị mộttên cuồng tín đao thủ của Stalin ám sát ở Mexico. Đấy là vụ ám sát tiếptheo vụ ám sát hụt hồi tháng 5 do một họa sĩ người Mexico: Afaro Siqueiros, một kẻ cuồng tín khác.

‘’Tôi tin chắc Đệ Tứ Quốc Tế sẽ thắng lợi. Hãy tiến lên!’’, lời cuối cùngcủa Trotskij ngày 20 tháng 8 năm 1940, trong thời gian vài tiếng còn tỉnhtáo, sau khi bị búa đập một loạt vào đầu (theo lời của Joseph Hansen,người cộng tác thân cận hiện chứng kể lại).

Ngày 12 tháng năm 1939, một tuần lễ sau khi chiến tranh nổ ra, dường như Trotskij dự cảm sẽ bị thủ tiêu, nhận thức giới cách mạng vô sản đangbối rối trước tình trạng chiến tranh, Trotskij - trong khuôn khổ một cuộctranh luận với các đồng chí người Mỹ (nhóm Shachtman) - viết như sau:

Cuộc chiến tranh đế quốc lần thứ hai đề cập một nhiệm vụ để tiếntới giai đoạn lịch sử cao hơn, nhưng nhiệm vụ ấy không ai giảiquyết. Một lần mới nữa, chiến tranh chẳng những thử thách các chế độ tồn tại trong việc giữ vững quân bình, mà còn thử thách giai cấpvô sản có năng lực đứng lên thay thế các chế độ đó hay không. Kếtquả của sự thử thách này có thể sẽ có một ý nghĩa quyết định chochúng ta nhận định thời hiện đại là thời đại cách mạng vô sản.Nhưng, nếu trái ngược với mọi khả năng, trải qua tiến trình chiến tranhhiện nay, hoặc liền ngay sau khi dứt chiến tranh mà không có mộtcuộc cách mạng tại một nước tiên tiến nào đó, nối tiếp truyền thốngCách mạng tháng Mười, và ngược lại, giai cấp vô sản thối bộ trêntoàn các mặt trận và ở khắp nơi, khi đó thì chắc chắn chúng ta phảixem xét lại quan niềm của chúng ta về thời đại ngày nay và vềnhững nguyên động lực của nó. (136)

Ngày 27 tháng 2 năm 1940, Trotskij thảo bản di chúc, trong đó có đoạn:

Trong thời gian bốn mươi ba năm đời sống có ý thức của tôi, tôi vẫn là một người cách mạng, trong bốn mươi hai năm trong thời gianđó, tôi chiến đấu dưới ngọn cờ chủ nghĩa Karl Marx. Nếu như tôi phảilàm lại từ đầu, dĩ nhiên tôi sẽ cố tránh những sai lầm này nọ, nhưngvềđại thể cuộc đời tôi vẫn không thay đổi. Tôi sẽ chết như mộtngười cách mạng vô sản, theo tư tưởng Karl Marx. Niềm tin của tôivào nhân loại cộng sản tương lai không kém mãnh liệt chút nào, tráilại, tôi còn tin chắc hơn cả thời thanh niên của tôi. Cuộc đời sốngđẹp làm sao. Mong sao những thế hệ tương lai quèt sạch mọi cái ác,mọi áp bức và mọi bạo lực và sống vui đầy đủ. (137)

Thế nhưng áp bức và bạo lực vẫn còn dằng dặc biệt bao nhiêu năm nữa: Ở Đông Dương, chính quyền thực dân sau khi đàn áp ráo riết chống phá cácphong trào cách mạng, những tưởng ‘’đã lập lại trật tự’’ đế quốc lâu dài,nhưng đó chỉ là tĩnh lặng trước cơn bão tố.

CHÚ THÍCH

125.- Trong khi quân Đức chiếm phía Tây Pologne (Ba Lan)thì cũng trong tháng 9 ấy quân Nga thu phục miền Đông. Nếu như quân đội Hitler nhập Paris ngày 14 tháng 6 năm 1940, thì ngày 15 binh lực Stalin xâm chiếm các nước vùng Bantic, và từ đầu tháng 7, vào Bessarabia (Romania).

Kèm theo Hiệp Ước đó là ba thỏa ước về kinh tế ký ngày 4.10.1939, 10.2.1940 và 10.1.1941. Theo thỏa ước thứ nhất, Nga sẽ cung cấp cho Đức nguyên liệu và cho sử dụng đường sắt để vận chuyển hàng hóa tới các nước Romania, Iran, Afghanistan và Viễn Đông. Theo thỏa ước thứ hai, Nga bảo đảm cung cấp 9.000.000 tấn dầu mỏ, 100.000 tấn bông, 500.000 tấn quặng sắt, 300.000 tấn sắt vụn, 2.400 kg bạch kim, manganese...

Tám ngày sau đó, báo Pravda (Sự Thật) viết rằng tất cả các thỏa ước giữa Đức và Nga ‘’phù hợp hoàn Toàn Quyền lợi dân chúng toàn các xứ’’! Dự án thứ ba trù liệu cho năm sau, cung cấp cho Đức 5 triệu tấn lúa mì và cho Đức sử dụng các đoàn tầu...

126.- La Dépêche d'Indochine, 20.9.1939.

127.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. NF 1820. Báo cáo của Thống Đốc Nam Kỳ gửi Toàn Quyền ngày 30.11.1939.

128.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. 7F26. Notes mensuelles sur les activités subversives en Cochinchine, oct. et nov. 1939 (Ghi chú hàng tháng về những hoạt động khuynh phúc ở Nam Kỳ, tháng 10 và 12 năm 1939, tài liệu Sở Mật Thám).

129.- Điện Tín, 3.10.1939.

130.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. NF 1820. Báo cáo của Thống Đốc Nam Kỳ gửi Toàn Quyền ngày 30.11.1939.

131.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. 7F26, Ghi chú hàng tháng..., tháng 12.1939 và tháng 3.1940 (Tài liệu Sở Mật Thám).

132.- La Dépêche d'Indochine, 10,11, và 17.4.1940.

133.- La Dépêche d'Indochine, 24.5.1940.

134.- Những con số dẫn ra bao gồm 5.848 dân làng khả nghi hoặc những người bạo động bị bắt (con số chính thức), sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11.1940. Archives Outremer, Aix-en-Provence. 7F 27.

135.- Hồ Hữu Tường bị giam ở Côn Sơn từ 1940 đến 1944 kể lại:

‘’Trong khám nhốt tôi, lúc ấy cũng nhốt Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Lê Doãn, có một anh thợ rèn, người gốc Biên Hòa, tên là anh Soái, có biệt tài thuộc lòng chữ một bộ Phong Thần và Tây Du. Cả khám nằm thin thít, mà nghe anh đọc lại truyện. Thú vị nhất là mỗi lần có một vị tiên xuất trận, thì anh ngâm bài thi với một giọng ông đồ ở nhà quê, nghe rất mùi tai.

Chuyện đọc truyện khởi từ khám của tôi. Sau lan tràn tất cả khám. Một hôm, có ai báo cáo gian không biết, nói rằng tụi chánh trị mỗi đêm tổ chức diễn thuyết có thằng Tây gác dan, mà anh em thường gọi là thằng Tây quần rình...Tại sao chúng tôi gọi thằng Tây đó là Tây quần? Bởi vì khi ra ăn cơm nó buộc ai nấy phải cởi trần truồng như nhộng vì nó muốn kiểm soát khi vào khám, chẳng ai lén giấu theo một cục sỏi nhỏ, hay một cái lá rụng, một cọng cỏ để xỉa răng. Hễ ai lơ đễnh, mà trước khi đi ra, còn mang cái quần đùi, thì nó đè đánh một trăm roi liền... Hôm ấy, thằng Tây quần rình bên khám của Dương Bạch Mai nghe thấy ai nấy nằm im thín thít mà nghe một tiếng nói thao thao, nó đề quyết là đương diễn thuyết chánh trị, mở cửa vô, kéo ra từng người, đánh mỗi người năm mươi cây củi đòn lớn, rồi làm báo cáo buộc tội tất cả các khám đương tổ chức chuẩn bị phá khám vượt ngục. Kết quả là đám chúng tôi bị biệt giam luôn hai năm, sau bị còng cẳng chín mươi ngày. Và kết quả tai hại nhứt là sau chuyến còng cẳng đó là một cuộc truyền nhiễm bịnh ỉa chảy tràn lan, báo hại số anh em chánh trị thuần túy hơn sáu trăm, mà chết liệt sạp, chỉ tồn còn một trăm hai mươi lăm mạng.’’ (Hồ Hữu Tường, Hồi ký, Paris 1984, trang 152).

Dưới đây là lời chứng năm 1946 của Thiếu Tá Teseyre, trước kia cai quản ĐảoCôn Sơn, khai trước Ban điều tra về những trách nhiệm ở Đông Dương:

‘’[Dưới chánh phủ Jean Decoux ] có 5000 tù ở ngục Côn Sơn. Trong tháng tôi mới đến, thì có 172 người chết, trội hơn chút ít số trung bình người chết trong một năm trước kia. Những tù chánh trị khổ sở vô cùng, chịu đựng ít nổi hơn thường phạm vặm vở hơn họ. Khám banh 3 dành riêng cho họ, sức chứa mỗi gian khám là 20 hoặc 30 người, tôi thấy trong đó đến 110, 120, 130 người. Một y sĩ người Đông Dương khai với tôi rằng có khi một buổi sáng, ông thấy 5 xác chết trong banh tù chánh trị. Những người tù chánh trị không chịu nổi chế độ ăn uống, họ thuộc trình độ cao hơn người thường phạm, họ là điền chủ, kỹ sư, đốc tơ. Lúc ấy có độ 1500 đến 2000 tù chánh trị. Khi tôi đến, vấn đề quan trọng hơn hết là vấn đề tù chết, nhứt là tù chánh trị. Họ vong mạng một cách liệt sạp. Họ bị nhốt chen chúc trong những gian khám nhơ nhớp bẩn thỉu. Họ không được đi ra ngoài, đó thì các ông thấy, về phương diện vệ sanh! Họ có một cái thùng bằng gổ, người ta xối ụp nước vào đó. 390 người bịnh ỉa chảy trong banh tù chánh trị chỉ có một cái gáo để múc ngay nước ấy; chỉ một người bịnh ỉa chảy rớ vào nước không trong sạch ấy thì đủ làm cho nó truyền nhiễm. Rồi sáng mai, luôn luôn chúng ta có thêm số người chết’’ (G. Chaffard, Les deux guerres du Vietnam, Paris 1969, trang 115)

136.- L. Trotski, The USSR in war (Liên Sô tác chiến), trong Defense of Marxism (Bảo vệ chủ nghĩa Mac), New York 1942, trang 14.

137.- Pierre Broué, Trotski, Paris 1988, p 947.