PHẦN THỨ TƯ - DƯỚI ÁCH NHẬT BẢN CHIẾM ĐÓNG 1940-1945 CHƯƠNG XVII -CUỘC KHỞI NGHĨA NÔNG DÂN Ở NAM KỲ--
Hiệp Ước Hitler-Stalin tháng tám 1939 biểu thị Liên Sô rời bỏ phe đế quốc ‘’dân chủ’’, mà Stalin xét thấy quá yếu ớt. Đảng cộng sản Đông Dương,đứng về phía đường lối đối ngoại mới của Liên Sô, ngưng hợp tác với thực dân Pháp để‘’phòng thủ Đông Dương chống Nhật’’ và trở lại luận điệu chống đế quốc như trước năm 1935.
Ngày 6 tháng 11 năm 1939, đảng cộng sản Đông Dương thay thế khẩu hiệu Mặttrận dân chủ bằng khẩu hiệu Mặt trận thống nhất các dân tộc Đông Dươngchống đế quốc, rồi dự định cụ thể ‘’chuẩn bị khởi nghĩa nhằm giải phòngdân tộc, để dựa vào Liên Sô, thành trí cách mạng thế giới, đấu tranh chốngchiến tranh đế quốc, lật đổ đế quốc Pháp và phong kiến bản địa, dành lạiđộc lập cho Đông Dương và thiết lập một Liên Hiệp Cộng Hòa Dân ChủĐông Dương.’’ (138) Cuộc cách mạng ruộng đất vẫn bị loại khỏi chương trìnhnhư dưới thời kỳ Mặt trận dân chủ.
Bỗng nhiên, bấy giờ đảng cộng sản Đông Dương xem chế độ thuộc địa đã trởthành một chế độ‘’quân phiệt và cảnh sát’’, dường như từ trước đến giờthực chất chế độ thực dân chưa hề là một nạn độc tài mang cả hai tínhchất cảnh sát và quân phiệt, mặc dù có đòi chút hòa dịudưới thời Mặt Trận Bình Dân. Đảng cộng sản Đông Dương mặc dầu bị tan vỡ nghiêm trọng khi chiến tranh nổ ra, đảng vẫn duy trì được một tiềm năng lớn ở nông thôn,thông qua mạng lưới cũ các Ủy ban hành động thành lập thời Phong TràoĐông Dương Đại Hội. Sự thay đổi về đường lối giúp đảng cộng sản Đông Dươngtiếp xúc trở lại với quần chúng đã từng bị thất vọng vì chính sách trướckia của đảng là ủng hộ nỗ lực chiến tranh của đế quốc Pháp, họ vô cùnghận thù việc mộ thanh niên đi lính và đem binh lính An Nam ra khỏi xứsở. Đảng cộng sản Đông Dương không hô hào đăng lính nữa mà từ nay vận độngtheo chiều hướng của quần chúng bất mãn, chống đối các loại thuế, phảnđối sung công.
Đối với những người xu hướng Trotskij, trước cũng như sau Hiệp ƯớcHitler-Stalin, cuộc xung đột giữa Đông Dương thuộc Pháp với Nhật Bảnlà một cuộc đế quốc chiến tranh. Thế nên đảng viên Đệ Tứ Quốc Tế chiếnđấu chống đế quốc chiến tranh với triển vọng biến đổi đế quốc chiếntranh ra nội chiến cách mạng. Họ vẫn tuyên truyền theo hướng đó nhưtrước nay, không thay đổi, mà họ cũng vừa kêu gọi đề phòng mọi hànhđộng phiêu lưu, - theo lối đảng cộng sản phát khởi nông dân bạo động vũtrang trái thời cơ trong những năm 1930-1931.
Ngày 22 tháng 6 năm 1940, chính phủ mới ở Pháp do Pétain chủ trì, ký đình chiến với Đức. Đã thất bại ở nước họ, Pháp còn có thể làm gì để chống dân nổi dậy ở Đông Dương? Hai ngày trước đó, Toàn QuyềnCatrouxđã cúi mình trước người Nhật khi họ bắt buộc để quân đội Nhật kiểm soát vùng biên giới Việt-Hoa chủ đích cắt nguồntiếp vận quân Tưởng GiớiThạch. Tháng 7, Pétain cử Đô Đốc Decoux - một kẻ kiên định phục vụ Pétain - làm Toàn Quyền thay thế Tướng Catroux.
Cũng trong tháng 7, xứ ủy đảng cộng sản ở Nam Kỳ ấn định một lịch trình bạo động vũ trang, đồng lượt chuẩn bị thành lập một ‘’tư lệnh tốicao’’, tổ chức những ‘’đội tự vệ’’ rèn luyện về chiến tranh du kích (139) vàgầy dựng những ủy ban cơ sở để phát động tổng bãi công bạo động.
Ngày 22 tháng 9 năm 1940, quân Nhật tấn công Lạng Sơn, ba ngày sau, quân đội Pháp cùng lính bản xứ đầu hàng; ngày 26 lực lượng quânđội Nhật tiến vào Hải Phòng không gặp một trở lực nào rồi chiếm cứ BắcKỳ. Cũng trong thời gian đó, Xiêm chiếm hai mảnh đất Lào và một Tỉnh Căm Bốt; từ tháng 10 nhiều cuộc xung đột bắt đầu rung chuyển bờ sông Mêkong, buộc chính phủ thuộc địa phải đưa quân ra vùng biên giới.
Cuộc bạo động
Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động cuộc khởi nghĩa. Phải hành động trước khi các đảng viên trong hàng ngũlính tập phải lên đường ra mặttrận. Cuộc khởi nghĩa được ấn định vào ngày 22 tháng 11 năm 1940 (Banthường vụ xứ ủy e rằng chuẩn bị vội vã sẽ đưa đến thất bại như trongnhững năm 1930-1931, nhưng rốt cuộc cũng đứng về phía đa số).
Xứ ủy lượng định các phương tiện đã chuẩn bị sẵn sàng, họ tiến hành công việc một cách sôi nổi nhiều tháng qua tại các Tỉnh Gia Định, TânAn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ và Long Xuyên; chế tạo được vũ khí và đạn dược chuẩn bị cuộc bạo động vũ trang.
Đồng lượt cùng quyết định về ngày giờ khởi nghĩa, các tỉnh ủy nhậnmột bản ‘’Tuyên Ngôn của chính phủ lâm thời’’, chỉ rõ là sẽ lập ra khôngphải những Sô-viết (chính quyền của giai cấp) mà là một chính phủ nhândân, đứng đầu Cộng Hòa Dân Chủ Đông Dương.
Cuộc khởi nghĩa đáng lẽ phải phát khởi vào nửa đêm, một lượt ở Sài Gòn và các tỉnh. Nhưng kế hoạch đã bị lộ: Một ủy viên thành ủy,Nguyễn Như Hạnh, giáo viên dạy tư, bị mật thám bắt vào hồi 11 giờ, lúcthầy trong người có mang theo một bản tuyên bố kêu gọi nhân dân bị ápbức toàn Đông Dương nổi dậy chống bọn ‘’phát xít Pháp, phát xít Nhậtvà quân đội Thái, chống bọn vua chúa bản xứ, để thiết lập một chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Đông Dương, liên quan với mặt trận kháng chiến TrungHoa.’’
Việc bắt giáo viên Hạnh kéo theo vụ bắt Tạ Uyên, người vượt ngục Côn Đảo, trong người có mang theo lá thư sau đây tỏ ý hơi lo ngại về tổ chức:
Anh thầy,
Chúng tôi đã làm như đã nhất định giữa chúng ta hôm nọ, tôi đề nghị có 10 ô-tô để chở người, hai cái xe đậu tại phố Bình Hòa (khochứa cao su), ba cái sẽ để ở đường Bà Quẹo đi Chợ Lớn, tại bờ dốcbãi cỏ thấp mà anh đã biết, phía ngoài chợ; các xe ấy cần phải đậutại chỗ từ 11g đến 11g30; năm cái cần phải đậu tại chỗ đã nhất định.
Vấn đề chiến lũy
Cái đó tùy những con đường lớn trong thành phố mà bày bố xây dựng lên. Chỉ có đường Général Lizé và ngả tư Verdun (Lê Văn Duyệt) phải để một khoảng trống để dễ bề vận chuyển cứu cấp Khám Lớn. Phải lập chiếnlũy trên đường Verdun phía trên đường Général Lizé để cản ngănpháo binh tới. Phải tổ chức một đoàn đao thủ đặng hành quyết Đại Tá chỉ huy Đồn Ô Ma. Phải thiết lập chiến lũy trên đường Pétrus Ký (?) phía sau Đồn Ô Ma. Phải hạ sát Đại Tá và Trung Tátại nhà ở đường Verdun.
Xung lập chiến lũy trên đường Chasseloup Laubat (Hồng Thập Tự) để chiến đấu chống người Pháp nhà ở gần trại lính RTA bis. Khí giới đã sẵn sàng chưa?
Khẩu hiệu - Mỗi nơi đều phải có những nhóm cứu tế, tốt hơn là dùng học sinh biết nói tiếng Pháp. Toàn cả khẩu hiệu trong thành đều tùy những đồng chí quyết định. Lực lượng ta không mạnh mấy.
Phải thận trọng và tiến hành có phương pháp.
Về thuốc độc, mình có hay không? Nếu có thể dùng để bớt sốngười Pháp thì phải dùng loại nào có hiệu quả trong hai ba giờ sau.
Mật thám bắt Phan đăng Lưu, một ủy viên trung ương, tại gian buồng kế bên gian Tạ Uyên, trong một khách sạn ở Chợ Lớn. Cũng chiều hôm đóbắt giam Phan Nhung, thuộc thành ủy Sài Gòn, làm đốc công trong Trường Kỹ Nghệ Thực Hành, cùng một anh lính tập tên Quí tại Đồn Ô Ma và khoảngmột chục người tình nghi quanh vùng Sài Gòn-Chợ Lớn.
Bộ binh, thủy binh, hiến binh liền phát động sẵn sàng nghinh chiến.
Các địa điểmtrọng yếu đều có canh gác, tăng cường bảo vệ; đặc biệt những công xưởng Quốc Phòng FACI, Sở Ba Son, Sở Bưu Điện, Khám Lớn. Mườihai tù chính trị trong đó có những người thuộc phái Stalin như Nguyễn VănTạo, Dương bạch Mai, Vũ Đình Hiếu và Bùi Văn Ngữ, và những người xuhướng Trotskij như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hoa vàNguyễn Văn Quá, họ đang nằm điều dưỡng trong nhà thương Chợ Quán,nay lập tức họ bị tống trở về Khám Lớn. Trong Tỉnh Biên Hòa, quân línhtiếp vận được chở tới các trại giam ở Núi Bà Rá và ở Tà Lài để ngừa tù nổidậy, đồng thời tăng viện cả trạm chứa chất nổ ở Tân Mai.
Vào hồi 22 giờ đêm 22 tháng 11 năm 1940, dầu sao cuộc khởi nghĩa cũng phát động, đồng thời ở quanh phạm vi Sài Gòn-Chợ Lớn, trong cácTỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Tân An, vùng ven Đồng Tháp Mười, nó bao trùm cả châu thổsông Mekong, các Tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, CầnThơ cho tới Sóc Trăng. Những người khởi nghĩa tấn công vào các cơ quanđại diện chính quyền ở Hóc Môn, Vũng Liêm, Tân Bình, bắn vào các đồn lũy quanh vành đai Sài Gòn-Chợ Lớn, đánh phá các bốt do cảnh binh AnNam đóng, đoạt súng ống. Họ thiêu đốt các nhà hội làng, nơi ban hươngchức hội ta hội họp; hương chức làng và quan viên nào nổi tiếng tàn bạođều bị hạ sát, hoặc bắt đem đi, súng ống bị tước đoạt, nhà cửa bị lửa thiêura tro.
Những người du kích cố ngăn chặn đường sá, kinh rạch, phá cầu, cắt đường giây thép và hủy mọi phương tiện giao thông; họ tấn công các độilính tuần để cướp lấy vũ khí. Cuộc bạo động làm rung chuyển khắp miềnTây Nam Kỳ, cả những vùng nông dân đã từng nổi lên tranh đấu lớn lao vàcũng bị đàn áp bạo tợn không kèm trong những năm 1930-1931. Cuộc khởinghĩa lan rộng tới các Tỉnh Rạch Giá, Long Xuyên và Bặc Liêu từ cuốitháng 11 và chấm dứt bằng một ngọn lửa cuối cùng bùng lửa lên trong đêm 13 rạng 14 tháng chạp năm 1940, bốn chục quân khởi nghĩa tấn công đàihải đăng ở Đảo Poulo Obi(Hòn Khoai).
Cuộc đàn áp
Lệnh giới nghiêm tuyên bố. Lính tập An Nam bị giữ trong Đồn Ô Ma. Quân lính Pháp thuộc đội RIC (đội bộ binh thuộc địa) thứ 9 và 11, đội quân Lê Dương, không quân, cảnh binh, lính mật thám, được điều độngtung ra chống đối đầu quân khởi nghĩa. Đồng Tháp Mười bị bao vây và ném bom. Nhiều làng bị cảnh sát quét liên thanh và cào sạch cả làng; cácbinh lính người Căm-bốt hành quân tại các tỉnh phía Tây châu thổ, hiếpdâm và cướp bức không bị trừng phạt. Cuộc khởi nghĩa bị triệt hạ bằngphương pháp đã được sử dụng mười năm trước ở Cổ Am (Bắc Kỳ) chốnglại lính khố đỏ nổi dậy ở Yên Bái và ở Trung Kỳ chống lại Phong Trào Sô Viết Nghệ Tĩnh. Tại Tỉnh lỵ Trà Vinh, nơi Ngô Văn Xuyến bị quản thúc, banđêm cảnh binh chuyên chở nông dân bị giết và bị thương chất đống trênxe cam nhông.
R. Bauchar, một chứng nhân người Pháp, không phải không có lòng tôn trọng đối với người An Nam, đã đưa ra một hình ảnh đàn áp ác liệt trong vùng phía Bắc Mỹ Tho:
Một đại đội lính Lê Dương, một tiểu đội línhBắc Kỳ và một đơn vị cơ giới, toán lính thủy, đồng hành quân truy quét ráo riết, bắt những kẻ tìnhnghi, bắn vào những kẻ toan chống lại hoặc chạy trốn. Máy bay oanh tạc dữdội các ổ đề kháng. Trong vòng bốn ngày, họ bị tiêu diệt, những người cầmđầu bị xử bắn. (140)
Theo con số ước tính chính thức, hơn một trăm quân khởi nghĩa bị giết trong chiến đấu, còn về phía lực lượng đàn áp độ ba chục người bị chết,trong đó có ba người Pháp. Không kể hàng ngàn dân làng không tham giakhởi nghĩa mà cũng bị tàn sát. 5.848 người bị bắt giữ (số chính thức); cácnhà tù chật ních, số thừa ra bị nhốt dưới các xà lan, trong những mái tôndưới mặt trời nắng gắt, họ cứ ỉa ra chết như ruồi. ‘’Một nạn dịch gây nhiễmgọi là bệnh thoát thư (pourriture d'hopital) truyền nhập vào họ. Mùi xú uế lan ra tới hai ba kilômet quanh vùng’’ (141), một chiến sĩ Đệ Tứ là Trịnh VănLầu bị mật thám bắt ngày 17 tháng chạp năm 1940, cũng vong mạng trongmột chiếc xà lan - nhà tù đó.
Jean-Michel Hertrich, kể lại như sau:
Hôm đó là ngày 5 tháng 9 năm 1941, tôi rời Đông Dương trên chiếc tầu thủy cuối cùng. Bên cạnh tôi, dựa trên lan can thành tầu làmột viên chỉ huy pháo binh, sĩ quan tình báo, đã mô tả lại cho tôinghe, anh ta bị một ám ảnh nào đó, về những gì anh ta trông thấytrong nhà tù Sài Gòn:
Từng đoàn tù nhân, đàn ông cùng đàn bà, cứ ngồi chân xỏ vào cùm, bị buộc phải tiếp tục sống như vậy để chờ xét xử, dưới làn roivà tiếng chửi của lính gác. Tôi nhớ lại những cách thức được sửdụng để làm cho những kẻ tình nghi phải nói: Máy quay điện một chiều (manheto) nối dây vào âm hộ hoặc dương vật, cho kiến vào bộ phận sinh dụcđàn bà; tôi cũng nhớ lại các phi công bạn tôi họ gớm ghiết bị sai đi ném bom hoặc xã liên thanh vào các làng ven Đồng Tháp Mười; tôicũng nhớ lại những vụ xét xử qua loa không cần luật pháp, lập lạicâu chuyển ở Yên Bái mười năm về trước. (142)
Tổng kết vụ đàn áp: Trong khoảng sáu ngàn người bị bắt, có 221 bị kết án tử hình, trong đó 181 người bị bắn, 216 người bị khổ sai, và hàng ngànngười bị tù. (143)
Tạ Uyên bị tra tấn mà chết vào tháng chạp năm 1940, Phan đăng Lưu bịbắn hồi tháng 5 năm 1941. Các chiến sĩ bị giam trước ngày khởi nghĩa như Ngyễn văn Cừ, Võ văn Tần - ở tù từ 17 tháng giêng và từ 21 tháng 4 năm 1940 -, Hà huy Tập - từ 1 tháng 5 năm 1938 -, cũng trong trường hợp đóNguyễn thị minh Khai, bạn đời của Lê hồng Phong, người đàn bà duynhất bị án tử hình, tất cả đều bị bắn (ở Học Môn) mặc dù Đô ĐốcPlaton, Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa, có can thiệp: Toàn QuyềnDecoux bác bỏ đơnchống án của họ.
Chính quyền thực dân tổ chức giết người công khai tại các tỉnh lỵ để làm gương. Sát nhân tại Sóc Trăng và Châu Đốc, bọn thống trị khiến línhtập Cao Miên nhúng tay vào đẫm máu.
Tấn bi kịch vang dội đến thượng cấp chỉ huy chiến sĩ khởi nghĩa. Sở Mật Thám xác nhận tin xứ ủy Nam Kỳ quyết định tái lập: Vào tháng giêngnăm 1941, Xứ ủy mới kết án tửhình cựu bí thư xứ ủy Nam Kỳ và bí thưliên tỉnh Cần Thơ, tố cáo họ là những người trách nhiệm việc phát độngmột cuộc khởi nghĩa đưa đến thất bại (144). Vụ án nội bộ trong đảng cộng sản ĐôngDương, theo chúng tôi được biết, không thấy níu ra trong lịch sử chínhthức của đảng này.
Ban trung ương đảng cộng sảnlánh trách nhiệm cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
Theo quyền lịch sử chính thức, Những sự kiện lịch sử đảng, Hội nghịlần thứ bảy ban chấp hành trung ương ở Bắc Kỳ‘’chỉ thị cho xứ ủyNam Kỳ hoãn cuộc khởi nghĩa và trao nhiệm vụ đồng chí Phan đăng Lưu truyền đạt chỉ thị của trung ương tới ban lãnh đạo ở Nam Kỳ’’. Quyết định này không thể ghi vào văn bản nghị quyết, vì theo ngườithảo bản nghị quyết - để bảo đảm bí mật (nguyên văn!) (145) Tuy nhiênnhững ai là ‘’chủ ta hiện tại phải chăng họ cũng là chủ ta của quá khứ’’,như George Orwell, nói, làm sao duy trì được cái giáo lý dạy rằng ban lãnh đạo không thể sai lầm, làm thế không đắc ý họ chăng?
~~~Δ~~~
CHÚ THÍCH
138.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. 7F 27: Notes sur l'activité des intrigues politiques de tendances subversives dans les milieux indigènes de Cochinchine pendant les mois de novembre et décembre 1940 (Ghi chú về những hoạt động của các âm mưu chính trị có xu hướng khuynh phúc chánh phủ của người bản xứ ở Nam Kỳ trong tháng 11 và tháng chạp năm 1940).
139.- Các đội tự vệ ở khu vực cơ sở là: Tiểu đội gồm 5 người; 3 tiểu đội họp thành trung đội; 3 trung đội thành một đại đội, 3 đại đội thành một đội khu (135 người) và toàn thể các đội khu trực thuộc tổng đội. Tổng chỉ huy tự vệ của khu vực. (Xem Louis Marty, Contribution à l'histoire des mouvements politiques en Indochine française (Góp vào lịch sử các phong trào chính trị ở Đông Dương thuộc Pháp), Hanoi 1930-1935, Tập IV, tiếng Pháp trang 83).
140.- Bouchar, Rafales sur l'Indochine (Những trận cuồng phong thổi Đông Dương), Paris 1946, p 71.
141.- Philippe Franchini, Continental Sài Gòn (Nhà hàng Continental ở Sài Gòn) Paris 1977, trang 112.
142.- Jean-Marie Hertrich, Độc Lập! Paris 1946, trang 22.
143.- Paul Isoart, Indochine française 1940-1945 (Đông Dương thuộc Pháp 1940-1945), Paris 1982, trang 13.
144.- Xứ ủy nhanh chóng tổ chức lại, triệu tập một cuộc họp quan trọng vào ngày 21 và 22 tháng giêng năm 1941. Xứ ủy khởi phát hành tờ báo bí mật Giải Phóng số 1, rồi một nghị quyết lên án những kẻ ‘’chịu trách nhiệm’’ về sự thất bại của cuộc khởi nghĩa. Xứ ủy kết án tử hình hai người, trong số đó bí thư cựu xứ ủy và bí thư liên tỉnh Cần Thơ, tuyên bố khai trừ khỏi đảng ba ủy viên xứ ủy và một ủy viên tỉnh ủy Sóc Trăng. (Archives Outremer, Aix-en-Provence. 7F 27, Ghi chú những hoạt động..., tháng 2 năm 1941).
Bí thư xứ ủy bị kết án tử hình là Lê văn Khương tức Mười Đen. Bản án không hành quyết được vì mật thám đã bắn chết Khương trong một cuộc lục soát ngày 14 tháng 5. (Archives Outremer, Aix-en-Provence. 7F 27 ntrang tháng 6 năm 1941).
145.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. 7F 27, Ghi chú những hoạt động..., tháng 2 năm 1941 trang 493 đến 495.