← Quay lại trang sách

Chương 9 Những Bước Tiến Của Việt Minh Từ Xuân 1950.

Sau trận Việt Bắc Thu-Đông năm 1947, cơ quan lãnh đạo kháng chiến Việt Minh tuyên bố với toàn thể dân chúng trong vùng họ kiểm soát: Giai đoạn đầu trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp đã chấm dứt để bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn cầm cự trong chiến lược trường kỳ.

Cầm cự, theo Việt Minh, là quân đội Pháp không thể nào đẩy lui được họ trên mặt trận toàn quốc. Họ phân tách quân đội Viễn Chính Pháp đã không thể thành công trong lối đánh mau, đánh chớp nhoáng. Nếu bộ đội hùng mạnh của Pháp có thể đi sâu vào vùng Việt Minh kiểm soát thì ngược lại Vệ Quốc Quân cũng có thể len lõi vào hậu địch để trả miếng. Họ mệnh danh bộ mặt mới của cuộc chiến tranh là chiến tranh ‘’cài răng lược’’ hay chiến tranh xen kẽ, ở đó hai quân đội địch thủ sống bên cạnh nhau để bất kỳ tiêu diệt nhau. Lý luận ấy thoát thai ở kinh nghiệm thực tế của mặt trận Việt Bắc. Khi quân đội Pháp xuất toàn lực tiến ngược giòng Lô Giang thì ở đồng bằng các trung đoàn Việt Minh địa phương hăng hái tăng áp lực. Lý luận ấy thoát thai ở chiến trường miền Nam, ở chiến trường toàn quốc nói chung, mà quân lực của Pháp chỉ có hạn, hành động chỗ nảy, bỏ trống chỗ nọ…và lý luận ấy còn căn cứ ở sự tăng tiến của bộ đội Võ nguyên Giáp cả về mặt vũ khí lẫn tinh thần.

Sau khi đã cố hết sức đả kích hành động của Quốc Trưởng Bảo Đại, xuyên tạc những kết quả tốt đẹp trên Vịnh Hạ Long tuyên truyền phá hủy Hiệp Định Élysée, lên án Nội Các Trần Văn Hữu, Việt Minh thu cường lực, mài nanh dũa vuốt để tiếp diễn những trận đánh căn bản hòng thắng lợi cuối cùng.

Được các nước trong thế giới cộng sản chính thức công nhận, chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa của cụ Hồ chí Minh không bỏ lỡ cơ hội tuyên truyền và tăng cường luôn sự giao thiệp trong hệ thống cộng sản thế giới len lõi liên lạc với các đảng cộng sản trong Liên Hiệp Pháp nhất là đảng cộng sản Pháp của Thorez và Duclos. Họ đã giúp đỡ việt cộng không ít trên địa hạt tuyên truyền và gây phong trào phản chiến trong dân chúng Pháp, trong hàng ngũ quân đội Viễn Chinh Pháp.

Bộ máy chính quyền Việt Minh hoàn toàn dưới sự chi phối của đảng cộng sản, từ chính phủ trung ương cho đến các ủy ban xã. Hội đồng chính phủ, dưới mắt dân chúng là một phối hợp của các đảng phái như xã hội, dân chủ, liên việt, tôn giáo, các quan lại cũ, nhưng trên thực tế, đại đa số đều là các đảng viên đảng cộng sản và các người thân cộng cả. Chương trình hoạt động của các bộ trong chính phủ đều nằm trong đường lối của đảng cộng sản vạch ra và kiểm soát sự thi hành.

Tổ chức quốc hội của chính phủ Việt Minh từ 1945 không thay đổi và cũng không họp lần nào thêm cả, các nghị sĩ bị tản cư phân tán, người thì xoay ra buôn bán, người đi dậy học…trừ ban thường trực do Tôn đức Thắng, một đảng viên kỳ cựu cộng sản làm chủ tịch vẫn ở bên cạnh chính phủ. Dân chúng hầu như quên hẳn quốc hội. Vai trò quốc hội lu mờ dần trong trí nhớ và người dân cũng không liên lạc gì với tổ chức đó cả.

Nói giản dị, quốc hội biến mình dưới bộ máy chính quyền, riêng đắc lực cho đảng cộng sản.

Nói đến những bước tiến của chính phủ Việt Minh tức là nói đến đường lối, chủ trương, đến biến đổi, thăng trầm của đảng cộng sản ở Việt Nam.

Chính trị là một điều tối cần thiết. Việt Minh đặt chính trị lên hàng đầu của mọi vấn đề hoạt động.

Để có thể lôi kéo toàn thể dân chúng vào cuộc chiến đấu, Việt Minh tìm một phương thức mới: Đảng cộng sản Đông Dương biến thành đảng lao động Việt Nam.

Tháng 3 năm 1951, đảng lao động Việt Nam ra mắt dân chúng.

Trường Chinh, tổng bí thư của đảng lao động đọc bản tuyên ngôn trước máy truyền thanh nói về đường lối đối nội, đối ngoại của đảng. Đối nội, đảng tự nhận vai trò lãnh đạo tiền phong trong cuộc ‘’Kháng chiến cứu quốc và kiến quốc’’. Đảng sẽ thúc đẩy và khai thác tiềm lực của nhân dân trong cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm lăng và kiết thiết một nước Việt Nam mới. Đối ngoại, đảng sẽ phát triển tình hữu nghị của dân tộc Việt Nam với dân tộc Cộng Hòa Sô Viết, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và các nước Dân Chủ Đông Âu…

Để đào tạo những cán bộ thật trung kiên, để loại bớt những phần tử thiếu tinh thần, cộng sản ở Việt Nam nêu lên vấn đề chỉnh đảng. Chỉnh đảng là một việc tối quan trọng, có chỉnh đảng mới hy vọng thắng lợi.

Các lãnh tụ cộng sản giải thích vì sao phải chỉnh đảng. Đây là nguyên văn bản đó:

‘’Trung ương đảng trong kỳ họp hội nghị lần thứ 3 vừa rồi đã quyết định chỉnh đảng là việc chính mà chúng ta phải làm. Chỉnh đảng là một nhiệm vụ chính trị căn bản của đảng cộng sản hiện nay. Đảng từ ngày thành lập, đã trải qua hơn 20 năm hoạt động gian khổ, đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam tranh đấu giành được nhiều thắng lợi vẻ vang, Đó là điều mà trong đảng không còn ai có thể nghi ngờ. Đó cũng là điều mà đông đảo quần chúng nhân dân thừa nhận và tin tưởng.

Vì đâu đảng đạt được những thành tích như thế? Ấy là vì đảng có chủ nghĩa Mác-Lênin, có đường lối và chính sách đúng, có Hồ Chủ tịch lãnh đạo, có cơ sở khắp cả nước, có nhiều đảng viên và cán bộ tận tụy, hết lòng phục vụ nhân dân.

Tuy nhiên, vì đảng ta phải tiến hành đấu tranh cách mạng trong hoàn cảnh gian nan, trước cách mạng tháng 8 thì đế quốc và phong kiến khủng bố và bao vây trùng trùng điệp điệp, trong kháng chiến thì liên lạc khó khăn, nhiệm vụ nặng, công tác nhiều, nên cán bộ và đảng viên nói chung chưa giáo dục một cách sâu sắc và có hệ thống, trình độ tư tưởng còn thấp kém, ảnh hưởng không ít đến việc chấp hành nhiệm vụ và chính sách của chính phủ. Do lập trường và quan điểm giai cấp chưa vững, nhiều đảng viên và cán bộ còn thiếu tinh thần đấu tranh triệt để và bền bỉ cho sự nghiệp cách mạng. Trên tư tưởng chưa phân biệt rõ địch, bạn và ta, chưa nhận rõ chính sách đoàn kết toàn dân của đảng, chưa nắm vững đường lối trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, nhận thức về dân chủ và kỷ luật trong đảng chưa rõ ràng và đúng mức, tinh thần phê bình và tự phê bình chưa được thực sự nâng cao, lề lối làm việc quan liêu mệnh lệnh, xa lìa quần chúng, xa lìa thực tế và bệnh tham ô lãng phí còn khá nặng.

Hiện nay cuộc kháng chiến của ta đang ở giai đoạn cầm cự, giai đoạn chuẩn bị tổng phản công, là giai đoạn gay go, gian khổ, trước toàn thể nhân dân, trước mặt trận hòa bình dân chủ thế giới. Đảng ta nhận một nhiệm vụ lớn lao là lãnh đạo kháng chiến chuyển sang tổng phản công thắng lợi. Nhiệm vụ đó nặng nề và phức tạp. Nếu đảng ta không chuẩn bị mình cho đầy đủ, không trừ bỏ được những khuyết điểm và tư tưởng sai lầm nói trên của cán bộ và đảng viên thì trong thời kỳ sắp tới, việc chấp hành chính sách của đảng ta sẽ khó lòng mở rộng thêm thành tích hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.

Chính vì thế mà ta cần tiến hành việc chỉnh đảng. Do chỉnh đảng và đảng rèn luyện, chỉnh đốn và tăng cường đội ngũ để giữ vững trường kỳ kháng chiến và chuẩn bị đầy đủ lực lượng, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Do đó, chỉnh đảng trở thành một nhiệm vụ chính trị căn bản của đảng ta hiện nay và mỗi cán bộ, mỗi đảng viên đều có trách nhiệm tích cực làm cho cuộc chỉnh đảng lần này thành công.

Chỉnh đảng đồng thời cũng là một nhiệm vụ tổ chức căn bản. Năm ngoài, trong đại hội đồng, Hồ Chủ Tịch đã nêu cao nhiệm vụ phải xây dựng một đảng mạnh mẽ. Người nói: Đảng lao động phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Chính vì muốn chấp hành nhiệm vụ tổ chức đó mà chúng ta tiến hành việc chỉnh đảng.

Mấy năm gần đây, đảng ta phát triển mạnh, số lượng đảng viên lên đến 70 vạn nhưng chất lượng của số đông nói chung còn kém. Hơn 90% đảng viên thuộc thành phần gốc rễ nông dân và tiểu tư sản, tuy đã vào đảng được đảng giáo dục một phần nào và tự bản thân cũng có ít nhiều cố gắng, nhưng chưa gột sạch ý thức tư tưởng tiểu tư sản. Những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng nói trên của cán bộ và đảng viên là do ý thức tiểu tư sản đó gây ra. Xây dựng, chủ yếu là xây dựng về mặt tư tưởng. Tư tưởng có đúng thì hành động mới đúng. Tư tưởng có thống nhất thì mới có ý chí thống nhất, kỷ luật thống nhất, toàn đảng thông suốt muôn người như một. Cho nên xây dựng đảng cốt chính là một quá trình giáo dục, đấu tranh và cải tạo tư tưởng. Đó là đường lối Mao Trạch Đông trong vấn đề xây dựng đảng.

Vì chỉnh đốn tư tưởng rồi mới có thể chỉnh đốn các tổ chức quần chúng, nên hiện nay chỉnh đảng đồng thời cũng là một nhiệm vụ tổ chức căn bản cho đảng.

Chỉnh đảng là một chủ trương đúng mức và kịp thời. Nêu cao chỉnh đảng, quyết không phải là coi nhẹ những thành tích vẻ vang của đảng, phủ nhận những ưu điểm của cán bộ và đảng viên. Không coi thường sai lầm khuyết điểm. Đảng ta mới có thể giữ vững và phát huy ưu điểm, làm trọn nhiệm vụ khó khăn nhưng vẻ vang đối với ‘’nhân dân trong nước và lực lượng hòa bình dân chủ thế giới’’. Chỉnh đảng là một chủ trương kịp thời. Đối với những sai lầm khuyết điểm không những ta thấy cần phải trừ bỏ mà còn thấy có đủ điều kiện để trừ bỏ được. Vì do đại hội đồng toàn quốc năm ngoái đảng ta chung đúc được 21 năm kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của giai cấp và dân tộc để lấy đó làm cơ sở tư tưởng và lý luận đã tiến hành chỉnh đảng. Chỉnh đảng là một nhiệm vụ rất quan trọng về chính trị và tổ chức…’’

Để lọc lấy cái phần cần thiết trong cuộc giai cấp đấu tranh, có những Tỉnh miền Trung Du Bắc Việt sa thải gần phân nửa đảng viên các cấp. Một số lớn đảng viên hoạt động trong cơ quan cũng chịu chung số phận trong đợt thanh trừng đầu tiên. Lý do thanh trừng rất phức tạp, có khi vì những cớ xa xôi thuộc về dĩ vãng, có khi vì những lỗi không thể nào tránh khỏi.

Hãy xem một vài để phỏng đoán phương pháp trừng thanh nội bộ của cộng sản Việt Nam.

Một bí thư chi bộ bị đoàn thể đem ra nghiên cứu trường hợp anh đã được kết nạp. Cán bộ ấy thuộc giai cấp Tiểu Tư Sản thành thị, tham gia công tác năm 1945 ngay sau ngày ‘’cách mạng thành công’’ tháng 8. Đã năm năm nay, anh bỏ gia đình, bỏ họ hàng chạy theo kháng chiến, đã được đoàn thể tín nhiệm, kết nạp ngay từ 1946, ngày nay đã có một địa vị khá trong chính quyền cũng như trong đoàn thể. Hội nghị kiểu thảo đã họp và nghiên cứu tư tưởng anh vì sao đã theo phong trào cách mạng…Vô tình anh thuộc vào loại ‘’cách mạng hoạt đầu’’. Đa số các người được kết nạp vào tổ chức cách mạng năm 1945-1946 đều thuộc vào hạng hoạt đầu, ít thành thực, vì sợ chết, vì ham địa vị, vì theo đóm ăn tàn. Lý luận một chiều ấy đã đưa đến quyết nghị là thải anh cán bộ ra khỏi đến bao giờ tư tưởng anh được ‘’giáo dục lại hoàn toàn’’…

Cứ cái đà như thế, đại đa số đảng viên được kết nạp khoảng 1945 đều lo ngay ngáy và sửa soạn hành lý…về vườn. Đó là những cớ thuộc dĩ vãng.

Những lý do sốt dẻo thì vô cùng.

Một đồng chí công nhận hoạt động từ năm 1943 rất tích cực nhưng vì văn hóa kém quá, sáng kiến nghèo nàn nên mãi đến cuối năm 1949 mới bò được lên chức huyện ủy trong đoàn thể. Nói về phương diện tiết kiệm thì ‘’đồng chí huyện ủy’’ của chúng ta quả là người số một. Ngoài hai bộ cánh nâu, một cái bút máy ‘’cà cộ’’, đồng chí mua bán tiêu pha một cái gì có thể gọi là ‘’tốn của nhân dân’’, của chính phủ, từ những mẫu giấy con con, từ mẫu các-bon, anh cũng thu và thu vén. Bữa cơm, anh chỉ dùng mấy ngọn rau, vài hột muối hòa với vi-ta-min Ơ (các cán bộ của Việt Minh đặt tên vi-ta-min Ơ cho những trái ớt) còn không, có món gì khác, thậm chí những ngày quốc lễ, kỷ niệm, toàn thể được ‘’đúp-ra-xì-ông’’ anh cũng tập kiên khổ không gắp qua miếng thịt bò thịt lợn…

Thế rồi, một hôm quân đội Pháp tảo thanh một vùng thuộc huyện anh phụ trách. Dân chúng hốt hoảng chạy xô cả vào một xã. Không biết vì lý do chiến thuật tránh càn quét của huyện ủy có khuyết điểm hay vì hoàn cảnh chiến trường gay go, chỉ biết rằng trận càn quét của quân đội viễn chinh đã vô tình ‘’quét’’ luôn cả khoảng hai trăm dân chúng vô tội xuống truyền đài…Sau vụ đó, trung ương đảng bộ khai trừ thẳng tay vì huyện ủy của chúng ta vì lý do đã làm trái chủ trương trong thời gian của đảng và chính phủ. Chủ trương trong thời gian ấy là tiết kiệm máu. Làm đổ máu của những hơn hai trăm nhân mạng nhất là những nhân mạng ấy lại không phải là bộ đội, một lỗi không thể tha thứ được nói về phương diện trách nhiệm của một cán bộ đảng. Anh cán bộ bị khai trừ cũng không vừa, đồng chí định thảo đơn kiện trung ương đảng bộ Việt Nam tại phân bộ quốc tế đông phương, nhưng chắc cũng chẳng đi đến đâu nên đồng chí đành còm lưng làm cái công tác gánh thuốc lào kiếm ăn qua cơn thất nghiệp…chính trị tại một vùng đồi núi.

Gay gắt hơn nữa, vấn đề tư tưởng được tích cực chỉnh bị lại bằng cách thu hồi số lớn cán bộ trong đảng cũng như ngoài đảng đang hoạt động về nằm co một chỗ, anh nào phúc lớn thì được nằm co tại phòng tiếp tân của trung ương cơ quan mình, anh nào vô phúc thì xách ba lô đi tuốt vào…cải hối thất.

Cả hai thứ ‘’Phòng’’ và ‘’Trại’’ đều có mục đích chau dồi tư tưởng mới, lọc bỏ lỗi lầm cũ, nhưng ở Phòng thì còn danh còn nghĩa, chứ đến Trại thì thật là…tù.

Nhưng dù là ở Trại hay ở Phòng, hoặc còn là nhân viên hoạt động cũng đều phải hấp thụ tư tưởng mới, phải ươm tư tưởng mới từ miền Bắc bay qua biên giới, đó là tư tưởng Mao Trạch Đông, một tư tưởng Mác Á Đông Hóa. Dân Việt Nam từng hấp thụ văn hóa Khổng Tử và triết học từ bi của Đạo Phật, rồi gần đây lại Tây triết…tất cả những thứ ‘’Triết’’ ấy đã được Việt Nam Hóa trên giải đất chữ S, tạo ra một hệ thống tâm lý mềm mỏng đầy tâm tình hòa nhã. Từ năm 1945, ngay lúc cách mạng bùng nổ, điểm tâm lý căn bản ấy của dân tộc đã ngăn trở bao nhiêu là đổ máu. Mặc dầu là cách mạng, sự đổ máu ở Việt Nam cũng không phải đáng nên so với các cuộc cách mạng trên thế giới, so với Ba Lê Công Xã, những vụ Bastille hay so với Pétrograd của Nga-la-tư mấy chục năm về trước. Ngay trong các cơ quan quân, dân, chính của Việt Minh, công tác chỉ huy lãnh đạo hoặc thừa hành vẫn đượm mầu thuần túy dân tộc, trong các cơ quan, một tâm lý gia đình vẫn phảng phất, ngoài tình đồng chí, họ còn thương nhau như anh em thân thích…

Mùa Đông năm 1950, khi biên cương mở rộng đón mừng uy thế của Trung Cộng đã đón luôn cả tư tưởng Bác Mao, toàn thể thế giới đã thấy tòa án Trung Cộng liệt tội dâm đãng vào tội phản động hạng nhất nhì, liệt hành vi ăn tiêu xa xỉ vào loại đại hình (dĩ nhiên là dùng tiền túi để ăn tiêu xa xỉ) Toàn thế giới đã rõ Trung Cộng ở tài liệu ‘’Tư tưởng Mao Trạch Đông’’ một tài liệu thuộc loại sách gối đầu giường của tất cả các đảng viên cộng sản không cứ ở Á Đông mà cả ở Âu Châu nữa Mao Trạch Đông nói: ‘’Kẻ tư bản ví như con hổ mạnh trên núi Cảnh Dương mà chúng ta là vũ sĩ Võ Tòng, nếu Võ Tòng nới tay không đánh mạnh và đánh cho thật chết thì con hổ cũng sẽ ăn thịt Võ Tòng’’ Tư bản đây là các nước mang danh nghĩa đế quốc, tư bản đây là những kỹ nghệ gia, thương gia, điền chủ, phú ông và tư bản đây cũng cả là những kẻ vô sản nhưng mang theo mọi tính tình tự cao tự đại, tự ái hay mang theo lòng yêu thương kiểu cổ, kiểu Khổng Giáo, kiểu Thiên Chúa Giáo, kiểu Tư Sản… Còn chúng ta đây tức là những người đảng viên cộng sản, những người thân cộng sản…

Để làm điển hình cho phong trào trừng thanh nội bộ vụ án Trần Dụ Châu được thành hình. Trần Dụ Châu là cựu Thư Ký Hỏa Xa, đã giác ngộ theo phong trào cách mạng từ năm 1944, qua bao nhiêu thử thách, anh ta đã leo đến bực thang danh vọng. Có uy tín trong đoàn thể cũng như ở chính quyền, anh đã giữ chức Tổng Giám Đốc một ngành cần thiết trong quân đội, anh đã được chính phủ cấp hàm Đại Tá. Trần Dụ Châu bị bắt chỉ vì đi dự bữa tiệc cưới của một nhân viên cấp Phòng. Tiệc cưới tốn kém vài chục con gà và hàng trăm ngọn nến, có thuốc lá ăng-lê và có cả rượu ‘’Boócđô’’…Lúc vào tiệc, một quan khách đã thốt ra những lời đượm mùi ‘’đạo đức cách mạng’’ phê bình sự xa xỉ trong bữa tiệc, trong lúc toàn thể dân chúng và bộ đội ăn cháo, nằm gai nếm mật…Trần Dụ Châu, phần vì không biết quan khách đó là một nghị sĩ quốc hội, phần ngượng mặt vì những lời phê bình chua cay ngay giữa bữa tiệc, chẳng gì, trách nhiệm tinh thần vẫn là ở cấp phụ trách dù tiệc cưới đặt tại tư gia hay xa cơ quan hàng trăm cây số, nên đã thưởng cho vị quan khách vài cái tát tai nên thân…Bữa tiệc chưa tàn, người ta đã bắt ngay vị Đại Tá Giám Đốc đó để sau dăm hôm khẩu cung và điều tra thấy rằng Đại Tá đã có của riêng hàng trăm đô la Mỹ, hàng chục bộ quần áo ga-ba-đi-nơ hàng két rượu mùi và hàng tút thuốc lá thơm và hàng tập ảnh…gái. Những tài liệu ấy tố cáo gì ở Đại Tá? Nó tố cáo tư tưởng tư sản trụy lạc của một đảng viên trung cấp trong cộng sản, hành vi ăn cắp của một nhân viên cao cấp của chính quyền. Nó dán nhãn hiệu ‘’tối phản động’’ lên thằng người một vị Giám Đốc, nó dẫn đồng chí đảng viên lên đoạn đầu đài, vụ điển hình số một thuộc loại không tiết kiệm và ăn cắp của nhân dân. Lẽ dĩ nhiên, Trần Dụ Châu cũng lôi theo một số lớn cán bộ xa xỉ và ăn cắp vào Cải Hối Thất để giáo dục lại con người.

Về vấn đề tư tưởng, Trung Cộng đã thổi qua biên giới một luồng gió mới. Luồng gió làm rát mặt những người Việt Nam theo cụ Hồ chí Minh. Không nhận nó không được, đó là một đặc điểm của luồng gió ghê gớm ấy.

Nói đến chính trị, nội các Phạm văn Đồng chủ trương: Dự trữ lực lượng để chờ thời cơ. Muốn vậy, cộng sản phóng đại những thắng lợi của họ trên chiến trường Bắc Việt, đả phá tinh thần sợ Mỹ trong nhân dân, đả kích dữ dội chính phủ quốc gia do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo, nên ý thức căn bản: Vừa đánh giặc vừa bồi dưỡng và tích trữ lực lượng.

Nguyên văn bản báo cáo của Phạm văn Đồng dưới đây để cho mọi người rõ thâm ý của những người cộng sản:

‘’Những thất bại nặng nề của địch trên chiến trường Bắc Bộ làm địch lo ngại. Điều lo ngại đó đã phản ảnh trong dư luận các giới chính trị phản động ở Pháp và thế giới. Đứng trước tình hình này, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối phó thế nào?

Sức của Pháp có hạn, Mỹ lại giao cho Pháp nhiệm vụ quân sự khả năng trong khối gây chiến Tây Âu, thêm vào đó, phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam mỗi ngày một lan rộng, lên cao nhất là sau thất bại hòa bình. Thế Pháp quẩn, Pháp luôn luôn chạy theo Mỹ để cầu cứu. Nhưng Mỹ cũng đang gặp khó khăn lớn về mọi mặt ở khắp nơi trên thế giới, sức lực Mỹ cũng có hạn.

Vì lẽ trên thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, một mặt bản thân tiếp tục cố gắng, một mặt tích cực và quyết liệt hơn nữa trong việc dùng ngụy quân, ngụy quyền trong việc thi hành chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.

Để thi hành chính sách ấy, chúng trọng dụng tên đại gian ác Nguyễn Văn Tâm cùng một bọn phản động lưu manh, khốn nạn nhất trong bè lũ tay sai của chúng. Bọn này không từ chối một tội ác nào trong việc bắt lính, để tăng cường ngụy quân, cướp của để làm quỹ chiến tranh. Dùng vũ lực bắt lính không có kết quả, chúng dùng lừa phỉnh, mua chuộc. Chúng đặt lắm thứ thuế, nhiều nơi chúng thu ngược lại mấy năm trước (từ 1947) và thu thuế trước mấy năm tới. Đồng bào ta ở vùng tạm bị chiếm sẽ khổ cực thêm dưới gót sắt của địch và ngụy. Nhưng sẽ thấy rõ thêm mặt thật Việt gian phản nước của chúng mặc dầu lời nói giả nhân giả nghĩa của chúng, mặc dầu cái trò ‘’độc lập’’, ‘’dân chủ’’, cải cách’’ của chúng. Đồng bào sẽ căm thù chúng hơn và đoàn kết kháng chiến này mà chúng ta đã thắng lợi lớn ở vùng sau lưng địch Liên Khu 3, Trung Du, Bình-Trị-Thiên v.v…Đó là một cuộc thắng lợi lớn trong công tác duy trì và phát triển cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch.

Địch cố gắng nhiều trong việc chia rẽ dân tộc, hòng phá hoại khối đoàn kết kháng chiến. Chúng dùng mọi thủ đoạn gian ác để dụ dỗ, lôi kéo đồng bào miền núi, đồng bào có đạo, tìm mọi sơ hở của ta để gây khó khăn cho ta. Nhưng chúng ta không để sơ hở. Chúng ta phải củng cố thêm khối đoàn kết toàn dân một cách thiết thực bằng việc làm, thắt chặt đoàn kết thân ái giữa đồng bào lương và đồng bào giáo, đồng bào miền xuôi và đồng bào miền núi.

Chúng tăng cường chiến tranh gián điệp, từ vùng tạm bị chiếm, vùng du kích đến vùng tự do. Để chống cuộc chiến tranh gián điệp này, chúng ta phải tỉnh táo hơn nữa. Phải phát huy lòng yêu nước và tính tích cực của quần chúng, chỉ có tai mắt của quần chúng mới có thể khám phá được tất cả những âm mưu xảo quyệt của kẻ gian làm tay sai cho địch.

Về mặt kinh tế tài chính, chúng vừa cướp vừa phá, nơi nào không cướp được thì phá đốt. Chúng dùng mọi cách để phá mùa màng, trâu bò, nhà cửa, cầu cống, đê đập v.v…điều đáng đặc biệt chú ý là gần đây địch tìm phá công trình thủy lợi của ta, vậy chúng ta phải chăm chú đề phòng mưu mô phá hoại của địch.

Đó là cuộc chiến tranh toàn diện mà địch đang thi hành để làm yếu sức kháng chiến của ta. Tất cả những điều trên chứng tỏ rõ rệt cho toàn thể đồng bào thấy: Địch càng thất bại thì càng tàn bạo hiển độc, cho nên cuộc kháng chiến của chúng ta phải trường kỳ và gian khổ trước khi đi đến thắng lợi cuối cùng.

Vậy chúng ta phải vừa đánh giặc vừa bồi dưỡng và tích trữ lương thực. Phải đánh giặc khắp mọi nơi, về mọi mặt, thu nhặt về mặt quân sự để tiêu diệt sinh lực địch, để địch yếu dần nhưng không quên đánh giặc về mặt chính trị, kinh tế, tài chính đồng thời phải bồi dưỡng và tích trữ lực lượng của ta về mọi mặt quân sự, chính trị, tư tưởng, kinh tế, tài chính.’’

Việt Minh tranh thủ quần chúng cả ở vùng quốc gia kiểm soát. Nhiều cán bộ lén lút đi sâu vào vùng quốc gia tổ chức cơ sở, họ gây ảnh hưởng từng cá nhân và tuyên truyền không ngớt những thắng lợi bên ngoài của Việt Minh và vạch những sơ suất đào sâu nhược điểm của nền hành chính địa phương dưới sự lãnh đạo của chính phủ quốc gia.

Tận lực khai thác sức lao động để phụng sự kháng chiến, Việt Minh thi hành khẩu hiệu ‘’Giảm chính và tăng hiệu xuất’’

Giảm chính và tăng hiệu xuất!

Tất cả mọi cơ quan quân dân chính đều phải giảm chính.

Giảm chính để tăng cường đơn vị tác chiến, các cơ quan hành chính trong quân đội phải thu hẹp nhân số lại, phá tan hệ thống ‘’bàn giấy’’ và tham mưu’’.

Giảm chính để đỡ hao hụt ngân quỹ chính phủ, các cơ quan chuyên môn nói chung thuộc về chính quyền phải thải bớt nhân viên, thủ tiêu lề lối ‘’tháng lĩnh lương, ngày vớ vẩn’’…

Giảm chính để tiết kiệm sức lao động, các đoàn thể nhân dân phải thu hẹp số nhân viên bàn giấy để thừa người làm các công việc khác cần thiết hơn.

Giảm chính phải đi đôi với vấn đề Tăng Hiệu Xuất những người còn lại phải làm cả những việc của những người bị giảm chính nghĩa là làm gấp 2, gấp 5, gấp 10. Không làm được cũng phải cố mà làm, đó là một bổn phận mà đó cũng là một điều bắt buộc.

Số phận những người bị giảm chính ra sao?

Dăm năm theo đuổi kháng chiến, nay phải vác ba lô từ biệt anh em, từ biệt cơ quan, không một nỗi niềm nào chua cay, bi đát hơn tâm tình họ lúc ấy. Về ư? Về đâu? Gia đình nếu gặp được là một chuyện may mắn, nếu không, hoàn cảnh có thể bầy ra:

Một, có sức lực thì đầu quân.

Hai, không đầu quân được hay không muốn thì về tăng gia cầy cuốc tại những vùng hẻo lánh, người nào may mắn có mẹ nuôi có cơ sở tăng gia sẵn sàng ở miền Đồng Bằng hay Trung Du là một điều phúc.

Ba, đi gõ đầu trẻ ở một thôn xã nào để hàng tháng kiếm gánh thóc nuôi sống thân cô.

Bốn, trở thành công nhân vận tải, có ít tiền dành dụm sắp một cái xe đạp tàng, xếp lên đó hàng tạ muối và đẩy suốt từ miền xuôi lên miền ngược, qua rừng, qua núi, qua suối, qua khe, dầm mưa dãi nắng, làm mồi cho muỗi, cho vắt, để sau khi đổi lấy vỏ, lấy củ nâu, lấy nấm, lấy mật, lại xuôi từ đèo heo hút gió xuống tận một phố chợ gần ‘’tề’’.

Năm, nếu không muốn hoặc không có dư năng lực và nghị lực làm nổi bốn nghề nói trên, chỉ còn một cách là ‘’dinh’’. Dinh là vào Thành ‘’Vào Thành’’ là một danh từ bi đát, một ý tưởng kinh khủng của những kẻ có lòng đã sống dăm năm với chính phủ cụ Hồ. Vì trong lưới tuyên truyền của Việt Minh, tất cả những kẻ không chịu sống trong vùng ‘’tự do’’ mà trở về vùng ‘’tạm bị chiếm’’ đều là các loại phản động, tất cả những cường quốc giúp chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Đại đều là quân xâm lăng gớm ghiếc…

Tất cả các giác quan đều hấp thụ một lý luận, tâm lý bị hướng dẫn, những người bị giảm chính chẳng khác chi đàn gà có được thả ra cũng vẫn quáng nếu đêm ngày toàn bị nhốt trong tối đen.

Người ta chỉ nghĩ đến về Thành khi nào cái thế của người ta là 9 phần chết 1 phần sống. Về Thành, theo quan niệm của những người bị giảm chính là ‘’chết cả thể xác lẫn tinh thần’’, là hết, là mặc cho số phận và cho may, cho rủi. Đó là một điểm đặc biệt, một ưu điểm lớn trên mặt trận chiến tranh tâm lý của chính phủ Việt Minh. Người ta đã thấy những cặp vợ chồng cương quyết chia rẽ nhau vì lẽ chồng cam chịu đi công nhân vận tải, vợ quay trở lại Đô Thành và ngược lại, vợ cam chịu sống hiu quạnh với quán nước bên đường, chồng lạnh lùng đi thẳng vào Tề. Những cảnh ấy là kết quả của chính sách giáo dục Việt Minh.

Mùa Thu năm 1950, chính phủ Việt Minh mở trận đánh lớn vào khu Cao-Bắc-Lạng, tình thế quân sự Bắc Việt khẩn trương, phe quốc gia mất vùng biên giới. Thắng lợi của Việt Minh đã làm chấn động dư luận hoàn cầu. Thi đua với chiến dịch biên giới, quân kháng chiến Trung Bộ đánh đắm một chiến hạm của thế giới tự do chở quân sang giúp chính phủ Lý Thừa Vãn…Tất cả đã đánh một dấu phẩy chia giai đoạn cầm cự của Việt Minh ra làm đôi. Chính phủ cụ Hồ tuyên bố phần cuối của giai đoạn 2: Thời Gian Tích Cực Cầm Cự Chuẩn Bị Tổng Phản Công.

Tích cực cầm cự và chuẩn bị…! Tất cả lực lượng Việt Minh đổ dồn vào khẩu hiệu mới mẻ đó. Để lãnh đạo toàn thể dân chúng một cách chắc chắn hơn, hợp thời hơn, tháng 3 năm 1951, mặt trận Việt Minh và Liên Việt tuyên bố sát nhập làm một dưới danh từ Ủy Ban Liên Việt Toàn Quốc. Đó là mặt trận dân tộc thống nhất dưới quyền một chủ tịch cụ Tôn đức Thắng, người cựu lính thủy trong Hải Quân Pháp kiêm trưởng ban thường trực quốc hội.

Giúp việc chủ tịch Tôn đức Thắng có 3 phó chủ tịch:

– Linh Mục Phạm Bá Trực, đại biểu Công Giáo.

– Hoàng quốc Việt, kiêm chủ tịch tổng liên đoàn lao động Việt Nam.

– Bác Sĩ Lê Đình Thám, kiên chủ tịch ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam.

Ngoài chủ tịch và 3 phó chủ tịch còn thêm 2 ủy viên: Chu văn Tấn. Đại diện dân tộc thiểu số kiêm chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính liên khu Việt Bắc, kiêm chánh án tòa án quân sự toàn quốc và cụ già Thy Sơn, ông lão râu tóc bạc phơ có phong độ một nhà nho thuần túy.

Ủy ban liên việt toàn quốc thu thập hết sức rộng rãi các tầng lớp nhân dân, mục đích chính là vơ vét thật cặn kẽ giai cấp trí thức và quan lại lưng chừng. Đó là một hình thức tổng thu những cá nhân lẻ loi, những xu hướng phất phơ ngoài lề cuộc kháng chiến, thống nhất lại để chịu dưới quyền một đảng: Đảng lao động Việt Nam.

Trong vùng việt cộng, vấn đề kinh tế tài chính hết sức gay go nguy ngập, do đấy Việt Minh phải cố gắng phát triển tiềm lực kinh tế của nhân dân. Hệ thống mậu dịch rất nghèo nàn vì Việt Minh dùng mọi phương pháp, thủ đoạn để thủ tiêu quyền tự do mậu dịch.

Theo cộng sản, tự do thương mại có nghĩa là tự do ăn cắp. Từ ngày kháng chiến, một số lớn dân chúng tản cư sống bằng buôn bán. Nhờ buôn bán, số lớn đồng bào đã nuôi sống được gia đình trong những ngày điêu linh khổ sở. Nền thương mại rất lưu động vì phải tránh máy bay, tránh mặt trận. Một phần dân chúng cũng nhờ tản cư đi buôn mà trở nên giàu có. Tuy vậy, hình thức thương mại thật nghèo nàn, ngoài cách mở quán hàng ăn, giải khát, ai biết nghề thì hoặc chữa đồng hồ, hoặc chữa xe đạp, hoặc làm thợ cắt tóc còn toàn là loanh quanh với quán hàng tạp hóa với những thứ hàng ‘’ngoại hóa’’ lén lút. Còn một hình thức thương mại tại vùng đồi núi nữa là buôn măng, mộc nhĩ, nấm hương, tre nứa lá, những lâm sản. Muốn buôn những thứ này, dân chúng phải qua ty kinh tế và xông pha vào thâm sơn cùng cốc mới hy vọng có lời có lãi. Hình thức thương mại đã nghèo nàn nhưng chính sách của đảng lao động là muốn ‘’ỹ lao động hóa’’ con người, ép con người vào công việc tăng gia sản xuất, theo tôn chỉ của đảng, như vậy mới có tiến bộ…

Muốn tiêu diệt dần dần các con buôn, chính phủ bắn một phát đạn thẳng vào túi tiền của những người ưa buôn bán: Đó là thuế công thương nghiệp.

Kinh tế tự do mất đi kinh tế chỉ huy tiến. Ngoài những xưởng giấy, xưởng dệt, xưởng ép dầu của các đoàn thể dân chúng quan quản, kỹ nghệ quốc phòng được mở mang theo mức độ kháng chiến, Việt Minh đã phát triển công việc làm mìn, làm đạn, moóc-ti-ê, làm súng đại bác không giật (SKZ) v.v…

Để điều hòa nền kinh tế chỉ huy, để kịp thời sử dụng hàng hóa và vũ khí, Việt Minh tích cực tổ chức công tác giao thông vận tải. Yếu tố chính của vấn đề vận tải là nhân lực. Trên đường trường xa thẳm xuất hiện loại xe đạp buộc thêm vài cây tre, chở lạc, chở trà, chở củ nâu, chở giấy má…Đường xá bắt đầu được sửa chữa để dùng cho từng đoàn Molotova do Trung Cộng viện trợ. Công việc sửa đường và làm cầu cống hoàn toàn do dân chúng tự tạo. Phòng dân công thành lập tại khắp nơi. Lại một lần nữa Việt Minh động viên dân chúng để phục vụ kháng chiến. Hàng đoàn người, già, trẻ, trai, gái, cơm nắm, áo ôm, đêm đêm xẻng cuốc đắp đường, dầu trong mưa hay trong bão. Sức lao động con người được thúc đẩy dùng đến mức độ cao nhất. Những con đường dài dặc, ngày hôm qua còn lồi lõm, còn bị cắt xẻ do chiến thuật của giai đoạn kháng chiến, ngày hôn nay đã gọn gàng bình thảm lượn quanh đồng ruộng, lượn vòng sườn núi không còn dấu vết của chiến tranh.

Đường giao thông vận tải lớn là những mạch máu chính của cuộc chiến tranh tối tân, là yếu tố mấu chốt của vấn đề phân phối nhu cầu. Bởi lẽ đó nên quân đội Võ nguyên Giáp đặt nan đề giao thông chiến là một việc quan trọng. Hình thái chiến tranh đã thay đổi, đường vận tải lớn trước kia chỉ cần thiết riêng cho Bộ Tư Lệnh Pháp ngày nay cũng trở nên vấn đề sinh tử đối với bộ tư lệnh Việt Minh.

Hiểu như vậy, các cán bộ dân công hết sức thúc đẩy dân chúng đắp đường cho nhanh, xẻ núi cho mau và cũng vì vậy Bộ Tư Lệnh Pháp cố tình phá diệt đường xá, bắn giết đám dân công vô tội. Hàng chuỗi bom được đoàn phi cơ chiến thuật rắc dọc khắp nẻo đường, hàng tràng đại bác 20 ly tưới xuống ven đường, bờ ruộng, mỗi bóng người cầm quốc xẻng, mỗi bóng người nhấp nhô là mỗi tràng đạn nổ rầm trời.

Những đám dân công làm trong đêm tối siêng năng và quả quyết. Nếu nói về kết quả việc làm của họ đã đem lại ý nghĩa phản quốc gia theo quan niệm của những người quốc gia thuần túy vì lẽ họ đã mang sức lực ra giúp Việt Minh, thì hỏi về tinh thần làm việc của họ, phải công nhận họ xứng đáng là những người con quý của dân tộc Việt Nam. Dưới đường lối tuyên truyền của Việt Minh, họ chỉ biết đắp đường là yêu nước. Cử chỉ của họ đã lột rõ tâm tình đối với quốc gia dân tộc, và tất cả những người có ý thức đều phải nghiêng mình trước những sự hy sinh của họ dưới làn mưa đạn của không quân.

Song song với công tác đắp đường, ngành không và ngành thủy cũng được xây dựng. Phòng không quân bắt đầu tuyển mộ đào tạo sĩ quan các loại: Hoa tiêu, cơ khí…Phòng thủy vận tập trung vào những khả năng chuyên môn, tổ chức việc vận tải trên Lô Giang, trên các giòng suối rộng tổ chức thương thuyền vận tải ở bờ bể Trung Việt và tất cả các triền sông chưa bị vùng quốc gia kiểm soát.

Chính sách kinh tế tài chính của Việt Minh gồm mấy điểm lớn:

– Sản xuất tiết kiệm

– Thăng bằng chi thu

– Lũng đoạn kinh tế vùng quốc gia kiểm soát.

Để tránh nạn đói, Việt Minh hô hào dân chúng tăng gia sản xuất. Trước hội nghị cán bộ chính quyền tháng 3 năm 1951, Chủ Tịch Hồ chí Minh lên tiếng phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm. Sản xuất đi đôi với tiết kiệm, đó là khẩu hiệu chính mà toàn thể dân chúng đều phải thực hiện.

Từ cuối năm 1951, đảng lao động Việt Nam đã tung ra khẩu hiệu ‘’Tự Cấp-Tự Túc’’. Những xưởng cán bông, dệt vải, seo giấy mọc lên như nấm.

Giấy: Các cơ quan nói chung từ trên xuống dưới đều phải dùng thứ giấy chế bằng đó, bằng giang.

Bông: Một chương trình trồng bông được đại dân chúng hóa mỗi nhà đều phải tiến tới giống một sào bông. Giá một ký-lô bông được nâng cao hơn giá thóc để khuyến khích. Những cá nhân giồng bông nhiều, có kết quả tốt ở những khu đất do họ tự vỡ lấy sẽ được thưởng, hoặc giấy khen, hoặc tuyên dương làm chiến sĩ thi đua, chiến sĩ lao động trên mặt báo…

Mỗi gia đình cũng như mỗi cơ quan, mỗi cơ quan, mỗi đơn vị phải có chương trình sản xuất riêng: Bao nhiêu luống khoai, luống cà chua, luống rau, tăng gia bao nhiêu gia súc, đào bao nhiêu ao, thả bao nhiêu cá v.v…Để ngăn ngừa tâm lý hoang phí khi thu được nhiều kết quả do chính sách mới đẻ ra, đảng lao động Việt Nam đã gắn liền hai chữ Sản Xuất danh từ Tiết Kiệm. Sản xuất nhiều nhưng khi có kết quả không được hoang phí, chính sách ấy có nghĩa là những thứ sản xuất được sẽ để vào kho. Chuẩn bị cho thời gian tổng phản công.

Tiếp theo chính sách sản xuất tiết kiệm. chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa bắt đầu ca tụng một thứ thuế mới: Thuế nông nghiệp. Thuế nông nghiệp là một thứ thuế theo kinh nghiệm của đảng cộng sản Trung Hoa để nuôi Hồng Quân trong sự nghiệp lập các Khu Độc Lập trong khi chiến đấu với chính phủ của Trung Hoa Dân Quốc.

Các cán bộ thuế nông nghiệp giải thích đó là một thứ thuế dân chủ nhất đánh theo năng lực sản xuất của người dân, tính theo tỷ lệ của hoa mầu và lấy thóc làm đơn vị của thuế. Thuế nông nghiệp tượng trưng một thứ thuế ‘’xây dựng’’ một thứ thuế dành ưu thế chính trị cho nông dân, theo quan niệm của cộng sản.

Nhưng thực tế, thuế nông nghiệp cũng chưa thu đủ số dự trù cho ngân sách dù trong khi thừa hành nhiệm vụ, một số cán bộ thuế nông nghiệp đã dùng chính sách áp bức dân chúng.

Việc thu thuế rất nặng làm nhân dân vô cùng ta thán khiến cho Phạm văn Đồng phải sửa đổi ít nhiều để ve vãn lòng dân hòng thu được nhiều hơn nữa.

Trong bản báo cáo tường trình tình hình nông nghiệp họ Phạm đã đề nghị một chủ trương mới trước hội đồng chính phủ như sau:

‘’Khuyết điểm về thuế nông nghiệp 1951 là ở chỗ điều tra định sản có nơi quá thấp, nguyên nhân là vì một số người phụ trách không chịu thật chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến, cùng nhân dân bàn bạc để điều tra định sản cho đúng.

Điều tra định sản nói chung là thấp, nhưng không phải thấy đều nhau, nghĩa là có người vừa hay là cao một chút cho nên họ kêu nặng và bị nặng thật, hoặc tương đối nặng so với nhiều người khác nhẹ (số người được nhẹ lại thường là người có nhiều ruộng và ruộng tốt). Nhân dân thường nói: ‘’Không sợ đóng thuế, chỉ sợ không công bằng’’.

Điều tra định sản thường phải làm đi làm lại, làm phiền nhân dân rất nhiều, lại gây trở ngại đến công tác khác như thế là không hợp lý. Nhân dân thường nói: ‘’Làm sao tính cho đúng và đóng một lần’’.

Một điều cốt yếu trong thuế nông nghiệp là phải đi tới cố định sản lượng, và công bố cho nhân dân để nhân dân yên tâm sản xuất, ra sức tăng năng xuất. Có như thế mới thực sự khuyến khích sản xuất. Nhưng việc cố định sản lượng này trong vụ thuế nông nghiệp 1951, chưa làm được. Chúng ta phải kịp thời học hỏi kinh nghiệm sửa chữa khuyết điểm để hoàn thành nhiệm vụ thuế nông nghiệp 1952.

Căn cứ công tác thuế nông nghiệp 1951, hội đồng chính phủ đã xét lại điều lệ thuế nông nghiệp và quyết định thay đổi mấy điều nhằm mục đích giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân giảm nhẹ sự đóng góp ở vùng căn cứ du kích, quy định việc miễn và giảm thuế đúng mức lúc mùa màng của nhân dân gặp tai nạn bất thường.

Điều đáng nêu nhất là việc nâng khỏi điểm đánh thuế từ 61 ký-lô lên 71 ký-lô, đồng thời hạ thấp thuế xuất từ 6% xuống 5% như thế để miễn thuế thêm cho một số nông hộ nghèo, đồng thời giảm nhẹ chút ít cho mọi người.

Kinh nghiệm công tác thuế nông nghiệp 1951 chứng tỏ rằng chính sách thuế nông nghiệp của chính phủ đã hợp với sức đóng góp của nhân dân. Nếu điều tra định sẵn đúng, thì số thu là 20% tổng số thu hoạch của nhân dân do 90% nông hộ đóng thuế.

Để kháng chiến dành độc lập, mưu ích lợi cho nhân dân, chính phủ phải thu thuế nhưng chỉ thu vừa đúng sức đóng góp của nhân dân. Thực là một trời một vực so với số thuế bằng 50% tổng số thu hoạch mà nhân dân các nước đế quốc cho bọn cầm quyền để chúng áp bức nhân dân và chuẩn bị chiến tranh’’.

Mặc dầu cố đánh thuế nông nghiệp, cố tăng gia, cố tiết kiệm, Việt Minh cũng không thu được đủ chi phí cho chiến tranh cho nên Việt Minh cố gắng thực hiện thăng bằng chi thu của nền tài chính Việt Minh hiện tại:

‘’Thuế nông nghiệp 1951 thu dưới mức. Thuế công thương nghiệp từ đầu năm đến nay cũng thu dưới mức. Thuế công thương nghiệp từ đầu năm đến ay cũng thu dưới mức. Tuy rằng mức ấy còn thấp đối với khả năng thực tế. Cho nên việc thực hiện thăng bằng thu chi, thăng bằng ngân sách mà chính phủ đã quyết định sẽ gặp khó khăn. Vậy chúng ta phải coi trọng và cố gắng nhiều hơn nữa trong công tác này.

Năm 1951, chúng ta chủ trương tăng thu giảm chi, thống nhất quản lý tài chính, giảm dần việc phát hành để chi tiêu, làm như vậy chúng ta nhằm mục đích: Ổn định vật giá, ổn định thị trường, tạo điều kiện phát triển sản xuất, buôn bán phát triển nền kinh tế chung đồng thời phát triển công tác đấu tranh kinh tế với địch và mậu dịch với các nước bạn.

Trong năm 1951, công tác tài chính này đã thu được ít nhiều kết quả, cho đến đầu năm 1952, chúng ta đề ra kế hoạch Sản Xuất và Tiết Kiệm đồng thời chúng ta ra sức Tăng Thu Giảm Chi, tiến tới thực hiện Thăng Bằng Thu Chi, quyết tránh phát hành để chi tiêu, tạo điều kiện thật thuận lợi cho công tác sản xuất và tiết kiệm.

Sáu tháng đã qua, nhưng công tác của chúng ta chưa tiến bộ mấy. Chúng ta thu không đủ số dự trù trong ngân sách về thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp. Chúng ta chưa nhận thấy đầy đủ sự quan hệ mật thiết giữa công tác thăng bằng thu chi với công tác sản xuất và tiết kiệm. Thậm chí có nơi chỉ lo công tác sau mà sao lãng công tác trước. Như thế khác nào đặt cái cầy trước con trâu. Như thế là chưa hiểu, chưa nắm toàn bộ công tác kinh tế tài chánh trong đó khó khăn chính hiện nay vẫn là công tác tài chính: Thực hiện thăng bằng thu chi.

Chừng nào chúng ta chưa thực hiện được thăng bằng thu chi nghĩa là còn phải phát hành để chi tiêu thì chúng ta chưa ổn định được vật giá, chưa ổn định thị trường, thì nhân dân chưa mạnh bạo sản xuất và buôn bán, thì việc phát triển kinh tế còn gặp khó khăn. Đó là chưa kể còn phát hành để chi tiêu thì giá sinh hoạt vẫn còn lên mãi, làm thiệt hại đến đời sống của nhân dân, nhứt là từng lớp cần lao, bộ đội, cán bộ, công chức, những người nhờ lương tháng để sống.

Để thực hiện thăng bằng thu chi, để củng cố giá trị đồng bạc của ta, củng cố nền tài chính quốc gia, chỉ trên nền tảng đó, chúng ta mới thực sự cải thiện đời sống nhân dân phát triển nền kinh tế quốc gia’’.

Một chiến thuật nữa trong mặt trận kinh tế của Việt Minh là cố làm lũng đoạn nền kinh tế vùng quốc gia kiểm soát. Muốn phá chính sách Bồi Thổ của Quốc Trưởng Bảo Đại, Việt Minh mở rộng vòng đai sắt, để mặc cho những nhân viên bị giảm chính tự do trở về vùng quốc gia kiểm soát, gây nạn thất nghiệp, tung cán bộ công đoàn vào các xí nghiệp, xưởng máy trong vùng quốc gia hoạt động, tranh đấu, bãi công, đòi tăng lương, gây mâu thuẫn, ly gián chủ và thợ, cấp giấy tờ đi lại cho con buôn len lõi vào liên lạc với một số thương gia hám lợi hoặc Việt Nam hoặc Trung Hoa, chuyên chở lén lút thuốc men, các chất hóa học, máy thu thanh, máy chữ, vật liệu văn phòng…Để triệt lương thực vùng quốc gia, Việt Minh tổ chức bao vây kinh tế, cấm ngặt việc đem ngũ cốc, trâu bò về vùng quốc gia, cấm ngặt việc chuyên chở ngoại hóa và xa xỉ phẩm ra vùng thuộc họ kiểm soát. Ngoài những hoạt động trên, Việt Minh còn tích cực tổ chức bán Công Phiếu Kháng Chiến trong vùng thành thị, bí mật đánh thuế những thuyền bè, xe cộ vận tải qua vùng họ kiểm soát. Những hoạt động này cũng thu được khá nhiều kết quả.

Sau trận đánh thẳng vào đầu não Việt Minh năm 1947 (Opération LEA, Lạng Sơn-Cao Bằng-Bắc Kạn-Thái Nguyên-Tuyên Quang), lực lượng quân sự của Việt Minh tuy bị thất tán nhưng chủ lực không bị tiêu diệt. Sau một cuộc hội nghị tranh luận gay go, Việt Minh quyết định chuyển cuộc chiến đấu sang một giai đoạn mới: Giai Đoạn Cầm Cự

Giai đoạn này chủ trương xây dựng lực lượng, phát triển chiến tranh du kích.

Xây dựng lực lượng là tăng cường quân đội chính quy, lấy đơn vị sư đoàn làm chính. Năm 1948-1949, đại hội chủ lực 308 được thành lập gồm một số trung đoàn thiện chiến. Sư đoàn tinh nhuệ này do Đại Tá Vương thừa Vũ chỉ huy. Là một cán bộ quân sự cao cấp của Việt Minh, Vương thừa Vũ đã tòng học ở Trường Võ Bị Hoàng Phố (Trung Hoa), đã chỉ huy bộ đội chiến đấu ở Hà Nội và Khu Bình-Trị-Thiên (Trung Việt) năm 1948.

Cuối 1949, các đại đoàn khác lần lượt được tập hợp như đại đoàn 304 dưới quyền Đại Tá Hoàng minh Thảo, một đại đoàn trưởng trẻ và đầy tương lai của Việt Minh, đại đoàn 312 dưới quyền Đại Tá Lê trọng Tấn, đại đoàn 316 dưới quyền Đại Tá Cao văn Khánh, đại đoàn 320 dưới quyền Thiếu Tướng Văn tiến Dũng, nguyên cục trưởng cục chính trị của bộ tổng tư lệnh quân đội Việt Minh và đại đoàn 351 là đại đoàn pháo binh dưới quyền Thiếu Tướng Trần đại Nghĩa nguyên cục trưởng cục quân giới Việt Minh.

Quân đội chính quy Việt Minh giữ nhiệm vụ vận động chiến. Để phát triển du kích, Việt Minh liên hợp các Khu nhỏ thành các Liên Khu kháng chiến như:

– Liên Khu Việt Bắc gồm Khu 1, Khu 10, Khu 12 cũ (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang).

– Liên Khu 3 gồm Khu 2 và Khu 11 cũ (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Quảng Yên, Hòn Gay, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây).

Liên Khu 4 và Liên Khu 5 là Trung Việt v.v…

Mỗi Liên Khu có một liên khu trưởng chỉ huy và có các trung đoàn gọi là chủ lực khu, dưới có các tỉnh đoàn dân quân du kích.

Nói đến sự tiến bộ trong vùng Việt Minh là phải nói đến phương diện quân sự.

Phương châm ‘’Huấn luyện trọng hơn tác chiến’’ đề cao việc huấn luyện binh sĩ trong giai đoạn. Nếu tinh thần chiến đấu là điểu tối cần trong giai đoạn phòng ngự thì vấn đề kỹ thuật tác chiến lại là một việc hệ trọng trong giai đoạn cầm cự với chiến thuật ‘’vận động chiến là chính và du kích chiến là phụ’’.

Các trường quân sự được mở liên tiếp ở khắp nơi:

– Trường trung cấp quân sự huấn luyện các cán bộ tiểu đoàn và trung đoàn do Thiếu Tướng Trần tử Bình và Thiếu Tướng Lê thiết Hùng làm giám đốc, có giáo sư Trung Cộng huấn luyện (học ở bên kia biên giới). Các cán bộ trung cấp được chau dồi về kỹ thuật chỉ huy, nghiên cứu học tập chiến thuật của Đại Tướng Trung Cộng chỉ huy Đệ Bát Lộ Quân Lâm Bưu. Học tập quan niệm chiến tranh của một nước lạc hậu chống quân đội tối tân của một cường quốc, học sử dụng vũ khí mới. Về chính trị, các cán bộ phải học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, phương thức lãnh đạo quân đội chiến đấu, phương pháp vận dụng tinh thần binh sĩ…Tất cả các cán bộ lần lượt thay phiên mà đi học, hết khóa nọ đến khóa kia mỗi khóa chừng 50 cán bộ.

– Trường sơ cấp huấn luyện các cán bộ trung đội và đại đội, đôi khi nhận cả cấp tiểu đội nếu có đủ khả năng và có triển vọng về quân sự.

Ngoài hai loại trường trên, Việt Minh còn mở rất nhiều lớp võ bị địa phương huấn luyện ngay tại các đại đoàn, khu hoặc trung đoàn, tỉnh đoàn

Tất cả mọi lớp huấn luyện đều phải thuộc dưới quyền kiểm soát của quân huấn cục về mặt chuyên môn và tổ chức do cục trưởng Hoàng đạo Thúy, người Anh Cả của Hướng Đạo Việt Nam cũ, điều khiển.

Từ khi Võ nguyên Giáp trực tiếp giữ chức tổng tư lệnh, họ Võ đã thúc đẩy mạnh phong trào thi đua, rèn cán chỉnh quân năm 1949 ví như thời gian chuẩn bị nanh vuốt thu hình rình mồi của con hổ dữ.

Bước sang Thu-Đông 1950, bộ đội Việt Minh đua nhau áp dụng những điều học được trên chiến trường Cao-Bắc-Lạng đợt 2.

Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng là một đòn quyết liệt trong đó bộ đội của họ Võ tập trung gân sức. Tất cả các trung đoàn cứng, các đại đoàn có thành tích đều có mặt trong thời gian chiến dịch.

Ngoài việc thắng lợi, thu hồi khu biên cương trong tay quân đoàn Lê Dương anh dũng của Liên Hiệp Pháp, chiến dịch Cao-Bắc-Lang đẻ ra những trận Thất Khê, Khâu Luông, đẻ ra những anh hùng trong quân đội Việt Minh như:

Trần Cừ, một thanh niên thuộc giai cấp tiểu tư sản thành thị, một đại đội trưởng trong trận Khâu Luông đã dùng lưng bịt họng súng khẩu đại liên dũng mãnh của địch thủ để lấy đường xung phong cho bộ đội mình, thân nam nhi bị tung như xác pháo đã đem lại kết quả tiêu diệt được đồn.

La văn Cầu, một nông dân miền núi phụ trách ôm quả bom danh dự mở đầu cho chiến dịch đường số 4 đợt hai. Cử chỉ của La văn Cầu tượng trưng ý thức ‘’vị đảng’’ bực nhất trong bộ đội Việt Minh. Nói theo nhận định của những người quốc gia, cử chỉ ấy tố cáo một nấc độ cuồng tín tối cao của người lính cộng sản. Với chức vụ chỉ ngang với cấp Trung Sĩ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam hiện nay, tiểu đội trưởng La văn Cầu, người thanh niên 19 tuổi đã lĩnh trách nhiệm ôm quả bom tiến trong lửa đạn với mục đích đem đặt tại một mục tiêu đã chỉ định…Một loạt đạn liên thanh tiến gẫy cánh tay phải, trái bom chưa kịp đặt tới mục tiêu đã rơi xuống như một trái chín. Lặng lẽ quay trở lại, trong khói lửa, La văn Cầu điềm tĩnh khi gặp một trung đội trưởng đang tay gươm tay súng: ‘’Anh cắt hộ em cánh tay vướng bận lủng lẳng này’’, và một nhát kiếm lìa cánh tay vô dụng rơi như một chiếc lá lìa cành. Không đợi băng bó, người tiểu đội trưởng quay nhanh lại nhặt ôm trái bom bằng cánh tay còn lại thẳng tiến tới mục tiêu…Làm xong nhiệm vụ, để mặt trận bùng khói lửa sau quả bom tiên phong.

Những cử chỉ gương mẫu ấy được tuyên dương trước toàn thể quân đội Việt Minh và cũng là cái mốc thi đua trong thời gian lập công vĩ đại.

Muốn quân chủ lực khu tự nó đã có ý thức và kinh nghiệm chiến đấu. Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Minh đề cao tổ chức dân quân toàn quốc. Những người ‘’dân lính’’ ấy không phải là những người thoát ly gia đình, họ vừa làm ăn vừa tổ chức chiến đấu. Luôn luôn họ theo quân chủ lực để học hỏi kinh nghiệm ngoài tuyền tuyến. Trận đánh kết liễu họ lại quay về vừa cầy ruộng vừa canh gác làng mạc thôn xóm. Họ là những người lính chính quy tương lai của quân đội Việt Minh.

Việt Minh tổ chức rộng rãi như vậy nên luôn luôn thiếu thốn cán bộ. Do đó khẩu hiệu mới nẩy ra: ‘’cán bộ quyết định tất cả’’. Nói riêng trong quân lực, cán bộ là vấn đề tối quan trọng trong thời gian: Cán bộ phải chỉ huy những trận đánh bằng điện thoại bằng phương tiện tối tân vì chiến trường rộng rãi. Cán bộ phải biết sử dụng và chỉ huy trên mặt trận gồm đủ loại vũ khí tối tân, đại bác bắn vòng, đại bác bắn thẳng, súng cối nặng, nhẹ, đại liên, trung liên, đại bác không giật (SKZ), Bazooka v.v…Sau trận đánh, dù thua hay dù thắng, cán bộ phải đủ khả năng thu thập kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm phải nắm vững và phải phát triển tinh thần quân đội…nghĩa là đủ cả…

Với tất cả phương pháp nhồi sọ tối tân, Việt Minh đã biến bộ đội lạc hậu năm 1945 thành một quân đội khả dĩ ngang sức với quân đội một nước tối tân, có thể chống đỡ với quân đội Pháp không bị tiêu diệt trong chiến dịch Ondine 1 và 2 ở Hòa Bình, Sơn Tây, chiến dịch Pégase ở Hà Nam, Phủ Lý, chiến dịch Bastille ở Bắc Ninh, Junon ở Phát Diệm và Pomone ở Phú Thọ, Tuyên Quang, hơn nữa, Việt Minh còn dư sức chịu đựng hỏa lực vũ bão của quân đội tối tân Liên Hiệp Pháp trên chiến trường Vĩnh Phúc Yên và Nam Định, Ninh Bình 1960 dưới tài chỉ huy của vô địch tướng quân: Cố Thống Chế De Lattre de Tassigey.

Năm 1951, họ Võ được thêm vây cánh, hai ủy viên trung ương của đảng lao động được cử vào bộ tổng tư lệnh giúp việc dưới quyền Đại Tướng tổng tư lệnh, ba cơ quan chính tổng cục tham mưu, tổng cục chính trị và tổng cục hậu cần do ba nhân vật trực tiếp chỉ huy Trung Tướng Hoàng văn Thái, Nguyễn chí Thanh và Trần đăng Ninh.

Tổng cục trưởng tổng cục chính trị Nguyễn chí Thanh là một nhân vật cừ khôi, đã tham gia hoạt động cộng sản từ năm 16 tuổi, hãy còn trẻ chưa đầy 40 tuổi, từng làm chủ tịch kháng chiến hành chính Liên Khu 5 (Trung Việt). Dưới bàn tay họ Nguyễn, công tác chỉnh huấn trong bộ đội Việt Minh tiến một bước khá dài, về phương diện tác chiến, họ biến thành những người lính thích chết hơn chịu hàng, về phương diện đạo đức họ cảm hóa được lòng dân. Những sự ấm ức của