Chương 10 Chính Phủ Nguyễn Văn Tâm.
Chính phủ Trần Văn Hữu đã xong nhiệm kỳ lịch sử.
Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã nhường ghế cho ông Nguyễn Văn Tâm.
Từ chính phủ Trung Ương Lâm Thời Nguyễn Văn Xuân đến Nội Các Trần Văn Hữu, Việt Nam Quốc Gia mới chỉ tiến bộ nhiều trên mặt thể thức. Đến nay cần phải có một chính phủ cương quyết hoạt động để mạnh tiến trên thực trạng.
Nhìn đúng nhịp đi của Quốc Gia Việt Nam, theo sát nhu cầu của tình thế, Quốc Trưởng Bảo Đại đã rất khôn khéo trong việc lựa chọn vị Nguyên Thủ mới. Quốc Trưởng đã chỉ định vị nguyên Tổng Trưởng Thủ Hiến Nguyễn Văn Tâm, người từng được mang danh là ‘’Cọp Cai Lậy’’.
Giữ trọng trách điều khiển vận mệnh nước nhà, Tân Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm đã đem ngay đến một nguồn sinh lực mới, một niềm tin tưởng mới cho đám dân chúng đang e dè, bỡ ngỡ trước hai đường: Cộng sản, quốc gia. Cho đến tận tháng 6.1952, hoạt động của Việt Minh vẫn còn reo rắc ý tưởng sô sệt trong dân chúng. Nào Cao-Bắc-Lạng, nào Hòa Bình, nào chính phủ Việt Minh, Nga Sô, một cường quốc ghê gớm và đáng sợ. Trong khu quốc gia còn phản phất không khí ám sát, khủng bố. Tất cả những sự lung lay và giao động đã không giúp sức mảy may cho lý tưởng quốc gia, trái lại còn làm lỏng lẻo Khối Quốc Gia Dân Chủ ở Việt Nam.
Nhìn rõ được tâm trạng của dân chúng, Tân Thủ Tướng đã ném luôn một trái bom vĩ đại, một lời nói bất hũ: Tôi đánh giặc.
Khẩu hiệu: ‘’Tôi đánh giặc’’ đã vạch rõ thái độ cương quyết của chính phủ Nguyễn Văn Tâm.
Muốn hưởng chế độ tự do dân chủ phải triệt để ủng hộ chính phủ quốc gia, phải theo chính phủ để cùng gọi đối phương là giặc, và phải đánh giặc. Lừng khừng là chết. Khẩu hiệu của vị Thủ Tướng chính phủ đã làm trỗi dậy hàng vạn con dân trên đường chống cộng.
Khẩu hiệu mạnh và ngắn của Tân Thủ Tướng đã tỏ rõ lập trường của chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia, đã làm người Pháp phải nhìn Quốc Gia Việt Nam bằng cái nhìn mới mẻ, đồng thời Hoa Kỳ, cường quốc dân chủ bậc nhất cũng bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến Quốc Gia Việt Nam dưới sự dìu dắt của Quốc Trưởng Bảo Đại và Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm.
Trong khi khẩu hiệu ‘’Tôi đánh giặc’’ ảnh hưởng có lợi rõ rệt đến thái độ của các cường quốc dân chủ Tây phương đối với Quốc Gia Việt Nam thì những ‘’cố gắng vượt bực’’ của Việt Minh vẫn chưa đem lại được tín nghiệm của Kremlin.
Cuối năm 1949, sau những cố gắng phi thường của toàn thể cán bộ Việt Minh trong 4 năm chiến tranh ròng dã, một lãnh tụ Việt Minh đã phải thốt ra câu: ‘’Thế giới chưa tin chúng ta (thế giới cộng sản) nhưng chúng ta cứ làm rồi họ sẽ phải biết đến’’.
Hội nghị đệ tam quốc tế (Kominform) họp tại Mạc-tư-khoa lần chót đã phê bình các lãnh tụ cộng sản Việt Nam: Ngoài ưu điểm về quân sự, chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa đã có nhiều khuyết điểm lớn về ngoại giao và kinh tài. Khuyết điểm thứ nhất là sự hoạt động của chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa chưa đem lại hoàn toàn tín nhiệm đối với các nước dân chủ (cộng sản) trong khi đối thủ (phe quốc gia) đã tiến bước mạnh hơn đối với thế giới tư bản. Lời nhận xét trên tố cáo tư tưởng lừng khừng của những người cộng sản Việt Nam, thái độ có vẻ nước đôi giữa hai trái cân Nga-Mỹ. Khuyết điểm thứ hai là chính phủ Dân Chủ Cộng Hòa để cho dân chúng càng ngày càng lâm vào cảnh đói khổ. Lời nhận xét này tố cáo rõ ràng sự bất lực của Việt Minh trong vòng vây của Liên Quân Việt-Pháp. Đúng như vậy, trước chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, chính phủ Việt Minh như ở trong một cái túi: Mặt bể bị hạm đội Pháp bao vây, suốt dọc biên giới giáp Trung Hoa, quân đội Việt-Pháp chặn đóng trên Quốc Lộ số 4, miền Đồng Bằng quân đội Việt-Pháp cũng chiếm đóng và tảo thanh liên miên, mặt Tây-Bắc đồn binh Pháp rải rác theo dọc sông Đà và trên đường số 6. Việt Minh chỉ còn vỏn vẹn có khu rừng già nối liền Bắc Thái Nguyên, miền Nam Bắc Kạn và miền Đông Tuyên Quang để tập trung cơ quan chỉ đạo, đầu não của Việt Minh toàn quốc.
Từ 1950 trở đi, sau khi nhận lời phê bình cay chua gay gắt của Kremlin, các lãnh tụ Việt Minh mới tập trung tư tưởng về vấn đề cải tổ bộ máy chiến tranh cả về vật chất lẫn tinh thần. Và cũng từ năm ấy, người ta mới bắt đầu nghe thấy những lời hô ‘’Đồng chí Nguyễn ái Quốc muôn năm’’ vẳng lên trong rừng xanh núi đỏ. Việt Minh đã dứt khoát được thái độ của mình.
Trong ba ngày, Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm đã lập xong danh sách các vị Tổng Trưởng, Bộ Trưởng đệ lên Quốc Trưởng duyệt y.
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm đã tập hợp được các phần tử yêu nước, đảng phái và không đảng phái, những người quốc gia thuần túy của dân tộc Việt Nam.
Danh sách các vị Nội Các gồm có:
• Thủ Tướng kiêm Nội Vụ: Nguyễn Văn Tâm.
• Pháo Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh: Ngô Thúc Định.
• Phó Thủ Tưởng kiêm Tổng Trưởng Thông Tin: Phan Văn Giáo.
• Tổng Trưởng Bộ Ngoại Giao: Trương Vĩnh Tống.
• Tổng Trưởng Bộ Canh Nông: Cung Đình Quý.
• Tổng Trưởng Bộ Quốc Phòng: Nghiêm Văn Tri.
• Tổng Trưởng Bộ Tư Pháp: Lê Tấn Nẩm.
• Tổng Trưởng Bộ Giao Thông Công Chính: Lê Quang Huy.
• Tổng Trưởng Bộ Tài Chính: Nguyễn Huy Lai.
• Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục: Nguyễn Thành Giung.
• Tổng Trưởng Bộ Y Tế: Lê Văn Hoạch.
• Tổng Trưởng Bộ Xã Hội Lao Động: Lê Thăng.
• Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên Thể Thao: Vũ Hồng Khanh.
• Bộ Trưởng Bộ Nghiên Cứu Cải Cách: Trần Văn Quế.
• Bộ Trưởng Bộ Chiêu An Bình Định: Hoàng Nam Hùng.
Bắt tay vào công việc, Thủ Tướng đã trình bầy rất minh bạch những nét lớn trong chương trình xây dựng:
1.- Mối lo đầu tiên của chúng tôi là phát triển Quân Đội Quốc Gia, vì tương lai chúng ta, nằm trong tay quân đội.
Chúng tôi muốn dự một phần mới vào cuộc chiến tranh, nhận cho mình nhiều vùng chiến đấu mới. Thế nên chúng tôi đào luyện gấp các cán bộ nhất là các cán bộ cao cấp và các viên chuyên môn và cũng tăng gia sự tuyển chọn các viên chuyên môn trong các địa hạt khác. Vì hiện nay trong một xứ chiến tranh, không phải chỉ động viên quân đội, mà phải động viên toàn quốc.
Sự động viên ấy chúng tôi muốn nó sẽ là sự động viên của tấm lòng và ý chí. Bởi vì chính phủ phải phụng sự quốc gia, bởi vì cuộc chiến tranh hôm nay đã thành một cuộc chiến tranh của toàn quốc, bởi vì sự bình định chỉ phải là công cuộc của toàn dân. Chính phủ tôi sẽ kết hợp toàn xứ vào mọi cố gắng của mình. Nó sẽ kiếm và sẽ tìm ra hai nguồn hứng của nó trong tinh thần quốc gia đầy can đảm và lý trí, của dũng cảm, của lòng tin tưởng và chí hy sinh của toàn dân Việt Nam.
2.- Một Hội Đồng tuyển cử sẽ giúp dân tộc chúng ta có thể phát biểu được những nguyện vọng thiết tha của họ, từ những nơi đồng quê hẻo lánh, cho họ có thể hướng đạo và kiểm soát hành động của chúng ta là công cuộc của dân. Sự triệu tập một quốc hội lúc chiến tranh trong tình trạng bất an sẽ tỏ cho kẻ trung lập và cho đồng bào đang bị đè nặng dưới sự độc tài cộng sản, dầu là chế độ nhân dân chân chính.
Một Hội Đồng Quốc Gia Lâm Thời, đại diện tất cả địa phương và nghề nghiệp sẽ tổ chức một ngày gần đây, nó sẽ tiêu biểu ý chí thực hiện sự đại diện quốc gia của chúng ta cho đến ngày triệu tập quốc hội.
3.- Chúng tôi sẽ ưu đãi sự tổ chức nghiệp đoàn để giúp dân lao động ở thị thành có được phương thế binh vực quyền lợi và nâng cao mức sống của mình. Nhưng chúng tôi sẽ không quên rằng chỉ có thể thi hành một cuộc phân phát của cải lương thực là khi nào trong nước sức sản xuất được bành trướng và khối tài sản quốc gia được dồi dào, nhờ bởi sự đoàn kết của tất cả mọi người
4.- Chúng tôi sẽ cải cách chế độ điền địa để nâng cao sinh hoạt của nông dân, nhưng chúng tôi sẽ kính trọng quyền lợi hiện hữu của các điền chủ.
5.- Về phương diện cải cách cuộc cai trị, chúng tôi sẽ gắt gao như thế. Sự ban hành một quy chế công vụ sẽ đem lại cho giới công chức một bảo đảm chắc chắn, nhân đó, chính phủ sau khi đã chu đáo đến đời sống của họ, sẽ bắt buộc họ làm việc cho có hiệu quả, với một sự ngay thẳng tuyệt đối và phải có sáng kiến để đi đến chỗ thành công. Một chính phủ am hiểu trách nhiệm và nghĩa vụ của mình phải có một chính sách cai trị nới rộng quyền hành đối với các cơ quan hành chính địa phương. Như thế các cơ quan địa phương không còn lấy cớ không nhận được chỉ thị của thượng cấp hay là thiếu phương tiện hành động, để che chở cho những sự lỗi lầm của mình. Quan lại sẽ được đánh giá theo giá trị của việc làm của họ, họ sẽ được binh vực trong phạm vi thi hành chức vụ của họ cũng sẽ bị trừng phạt gắt gao về sự bất lực hay trốn tránh phận sự của họ.
Chính phủ Liên Hiệp Nguyễn Văn Tâm là một chính phủ hoạt động. Thủ Tướng chính phủ Liên Hiệp đã nói:
‘’…Dự một phần mới vào cuộc chiến tranh và nhận cho mình nhiều vùng chiến đấu mới…’’ Dự một phần mới vào cuộc chiến tranh và nhận cho mình nhiều vùng chiến đấu mới có nghĩa là Quốc Gia Việt Nam sẽ tỏ cho thế giới dân chủ biết lòng đứng đắn cùng tư tưởng chính đáng của mình: Dân tộc Việt Nam sẽ thẳng thắn tự nhận lấy phần trách nhiệm chính trong công cuộc tranh đấu bảo tồn lãnh thổ. Đấy là một lời nói chắc và mạnh. Lời nói ấy sẽ phá tan những thành kiến sai lầm của một số người trong nước cũng như ngoài nước vẫn thường không tin ở khả năng chiến đấu của các chiến sĩ quốc gia.
Muốn nhận phần thưởng xứng đáng: Độc Lập, Việt Nam không thể mãi mãi nhờ cậy các nước bạn mà cần phải phát triển bản thân lực lượng.
Bản thân lực lượng là một quân đội khỏe, một nền hành chính lành mạnh trong một đường lối dân chủ thực sự, bảo vệ tự do và quyền lợi cá nhân, tôn trọng nhân phẩm con người.
Trước kia Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chỉ làm một nhiệm vụ nhũn nhặn là chiến đấu phụ vào quân đội Liên Hiệp Pháp.
Từ khi ông Nguyễn Văn Tâm lên ghế Thủ Tướng, Quân Đội Quốc Gia dần dần thay đổi hẳn bộ mặt.
Nếu các lãnh tụ Việt Minh thẳng bước đến cộng sản hóa dân tộc Việt Nam bằng cách coi việc chỉnh đảng và cải tạo tư tưởng là công tác căn bản tối quan trọng của họ thì trái lại, phe quốc gia cần phải đặt công tác quân sự lên hàng đầu trong công cuộc xây dựng nền độc lập Tổ Quốc. Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm nhấn mạnh rằng: ‘’Tương lai chúng ta nằm trong tay quân đội’’. Câu nói ấy có giá trị vô cùng trong thời gian và trong hoàn cảnh. Quân Đội ‘’mối lo đầu tiên’’ không những của Thủ Tướng Tâm mà cũng là của tất cả mọi người theo lý tưởng quốc gia trong thời đại. Muốn thắng cộng sản, muốn lý tưởng quốc gia tồn tại, phải mạnh. Khối cộng đồng phòng thủ Tây Âu, việc tái võ trang Tây Đức, tái võ trang Nhật Bản hay phát triển Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tất cả những công cuộc ấy đều nằm trong một quan niệm: Khỏe để đánh bại cộng sản. Không khỏe sẽ mất hết tự do và dân chủ.
Ngày Việt Minh cướp chính quyền (1945) lực lượng thuần túy quốc gia trên toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có hai tổ chức đáng kể: Tổ chức quân sự của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở khu chiến Vĩnh Yên, Yên Bái và nhóm quân sự của Giáo Đạo Bùi Chu, Phát Diệm. Quân đội của Việt Nam Quốc Dân Đảng ra mặt chống Việt Minh để mong cứu vãn tình thế, duy trì một nền chính trị tự do dân chủ còn các chiến sĩ Công Giáo chỉ cầm súng để tự vệ, chỉ chống lại đối phương khi họ uy hiếp trực tiếp đến vùng tôn giáo của mình. Ngoài ra còn một số lác đác và ít ỏi những nhóm người cũng cầm súng chống Việt Minh đóng rải rác ở vùng Tiên Yên, Đầm Hà miền Duyên Hải Bắc Việt hoặc ở miền rừng núi Tây Bắc Việt v.v…Họ chạm súng với Việt Minh nhưng không có một quan niệm rõ rệt trong sự chiến đấu. Quan niệm của những nhóm lẻ tẻ ấy hoàn toàn có tính chất địa phương và cá nhân riêng biệt.
Sau ngày khói lửa bùng lan trên khắp giải đất Việt Nam (19.12.1946), mỗi địa phương Trung, Nam, Bắc dần dần thành tựu và kết hợp những tổ chức quân sự nhưng vẫn mang nhiều tính chất tự vệ hơn là chủ động xông pha tiền tuyến tìm diệt đối phương.
Trong thời gian Quốc Trưởng còn ở nơi Hải Ngoại, cho đến tận thời gian thành lập Nội Các Trần Văn Hữu, những tổ chức quân sự địa phương mọc lên nhan nhản.
Nhờ ở sức mạnh quân đội Pháp trực tiếp đương đầu với lực lượng đối phương, các bộ đội quốc gia có tính chất địa phương tự chau dồi tổ chức và tiến bộ. Từ hành động thiết lập một đại đội chính quy thời chính phủ Trung Ương Lâm Thời Nguyễn Văn Xuân đến sự động viên hàng năm sáu vạn người để xúc tiến việc xây dựng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam dưới Nội Các Trần Văn Hữu, Quân Đội Việt Nam mới chỉ đáng gọi là tượng trưng hình bóng mặc dầu đã có rất nhiều cuộc chạm súng ở tiền tuyến với các lực lượng quân sự Việt Minh. Đối với một quốc gia đang tiến mạnh đến độc lập, đối với một chính phủ đang cố giành dật lại đất đai, những hoạt động của đám quân sĩ nhìn chung chưa song đối với tiến bộ về những thắng lợi chính trị và ngoại giao đã thu hoạch được.
Nhìn rõ sự chênh lệch ấy, Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm quyết tâm hướng dẫn Quân Đội Quốc Gia Việt Nam theo kịp với nhịp tiến triển về ngoại giao và chính trị.
Các đơn vị chính quy, từ con số 65.000 (cuối năm 1949) đã vọt lên sấp sỉ 200.000 (1953) và nhất định sẽ còn tăng tiến nữa. (Theo chương trình dự định, đến cuối năm 1954, Quân Đội Quốc Gia sẽ lên tới con số 300.000 người).
Dưới quyền điều khiển của Thiếu Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hinh, lãnh thổ Việt Nam chia ra các Khu Quân Sự:
– Đệ Nhất Quân Khu: Nam Việt.
– Đệ Nhị Quân Khu. Trung Việt.
– Đệ Tam Quân Khu: Bắc Việt.
– Đệ Tứ Quân Khu: Cao Nguyên.
Mỗi Quân Khu có một Chỉ Huy Trưởng cấp Tướng hoặc cấp Tá phụ trách.
Đến cuối năm 1942, Quân Đội Quốc Gia đã có gần 5 Sư Đoàn gồm các Binh Chủng: Nhẩy Dù, Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Không Quân, Thủy Quân, ngoài ra lại còn những Vệ Binh Thái, Vệ Binh Nùng, Vệ Binh Nam Việt v.v…
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam có truyền thống tư tưởng chống cộng của các chiến sĩ cách mệnh quốc gia đã từng võ trang tranh đấu ngoài Bắc Việt của các chiến sĩ quốc gia với tư tưởng Bảo Hoàng miền Trung Việt, và của các chiến sĩ đạo giáo đã từng hy sinh trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Dựa vào cái cốt tinh thần ấy Quân Đội Quốc Gia phát triển và động viên được đông đảo nhân dân ở các vùng rộng rãi đã thoát khỏi sự chi phối trực tiếp của nền hành chính Việt Minh, những vùng đã tránh được sự chỉ huy trực tiếp của các viên xã đội trưởng hay huyện đội trưởng cộng sản.
Như đã nói, chiến tranh ở Việt Nam có một trạng thái rất đặc biệt. Hàng ngàn thôn xóm thuộc hẳn trong hệ thống chính trị của Việt Minh và hàng ngàn thôn xóm do quân đội Liên Hiệp Pháp bảo vệ đã trực thuộc phạm vi kiểm soát của chính phủ quốc gia. Giữa hai địa phận đó còn lẫn lộn những khu rộng rãi chịu ảnh hưởng của cả hai bên thế lực. Vì thế nên vấn đề động viên của chính phủ quốc gia cũng như của Việt Minh đã là một cuộc tranh chấp dữ dội.
Số thanh niên giữa hai khu vực ảnh hưởng vừa phải chịu thuế cho Việt Minh vừa phải chịu sự kiểm tra của chính phủ quốc gia. Họ không dám đi lính cho Việt Minh vì họ không thể chịu nổi sự quá khổ hạnh của chế độ chính trị một chiều. Nhưng với tâm lý sợ Việt Minh, khi nghe thấy lệnh động viên của chính phủ quốc gia, thoạt tiên họ cũng kinh hoàng. Rồi dần dần nhận định rõ chế độ tự do trong khu vực an ninh, họ đã hăng hái gia nhập quân đội. Do đó tổng số Quân Đội Quốc Gia tăng cường một cách mau chóng.
Chống lại tâm lý biến động của đám thanh niên đồng ruộng ấy, các cán bộ và nhân viên trong phòng tuyển mộ của Việt Minh ra sức len lõi hoạt động, tuyên truyền để cướp lại thanh niên, bổ xung quân số bị hao hụt trên trận địa.
Chính phủ quốc gia, nhờ những phương pháp mới mẻ, đã thu hút một cách dễ dàng những thanh niên lành mạnh để xây dựng Quân Đội Quốc Gia.
Quân số tăng cường bao nhiêu, vấn đề cán bộ chỉ huy càng thêm cấp bách bấy nhiêu.
Đối phó với vấn đề thiếu sĩ quan các Trường Võ Bị ra công đào tạo.
Niên khóa 1948-1949: 53 Sĩ Quan tốt nghiệp.
Niên khóa 1949-1950: 120 Sĩ Quan tốt nghiệp.
Niên khóa 1950-1951: 227 Sĩ Quan tốt nghiệp.
Niên khóa 1951-1952: 402 Sĩ Quan tốt nghiệp.
Niên khóa 1952-1953: 541 Sĩ Quan tốt nghiệp.
Các Sinh Viên Sĩ Quan được huấn luyện mỗi tuần:
– 6 buổi học về kỹ thuật tác chiến hoặc động tác cơ bản.
– 5 buổi học về kỹ thuật sử dụng vũ khí, địa hình địa vật, cơ giới, truyền tin…
– 1 buổi học về lý thuyết quân sự.
Thành lập từ năm 1951, Trường Thủ Đức đã đào tạo được hơn 2000 Sĩ Quan Trừ Bị.
Khóa thứ 4 (11.1953) có thêm 1.200 Sinh Viên.
Chương trình học 6 tháng, chia làm 3 giai đoạn:
– Huấn luyện chung.
– Huấn luyện chuyên môn.
– Thực hành tập sự.
Trường Biên Hòa chuyên đào tạo các Sĩ Quan Chỉ Huy Phụ Lực Quân Nam Việt.
Đã có 2.300 Sĩ Quan tốt nghiệp.
Trường Quảng Yên chuyên đào tạo Cán Bộ Chỉ Huy cho các đơn vị Khinh Quân.
Trong năm 1953, 2.200 Hạ Sĩ Quan đã tốt nghiệp (Chuẩn Úy, Thượng Sĩ, Trung Sĩ).
Và còn rải rác tại các Trường Quân Sự bên Pháp, 182 Sinh Viên Sĩ Quan Việt Nam đang được bổ túc thêm về: Bộ Binh, Pháo Binh, Công Binh, Không Quân, Thủy Quân v.v…
Vấn đề tuyển mộ Sinh Viên Sĩ Quan được chính phủ phân chia theo một tỷ lệ rất công bằng để tránh sự tiến triển lệch lạc hoặc ngừng trệ trong các ngành hoạt động xã hội, kinh tế:
Công Chức: 18%
Sinh Viên: 11%
Học Sinh Trung Học: 18%
Tư Chức: 52%
Võ Nghệ & Linh Tinh: 1%
Công Chức: 42%
Sinh Viên: 29%
Học Sinh Trung Học: 7%
Tư Chức: 16%
Võ Nghệ & Linh Tinh: 6%
Công Chức: 57%
Sinh Viên: 18%
Học Sinh Trung Học: 2%
Tư Chức: 16%
Võ Nghệ & Linh Tinh: 7%
Sĩ quan trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam là những thanh niên đầy hăng hái, quả cảm đầy lòng yêu nước thương nòi, đã từng có một căn bản văn hóa khá vững chắc để có thể tiến tới nắm vững kỹ thuật của cuộc chiến tranh tối tân.
Chính phủ còn mở mang rất nhiều Trường Võ Bị địa phương chuyên việc huấn luyện Hạ Sĩ Quan và Chuẩn Úy như Trường Võ Bị Trung Chánh ở Nam Việt, Trường An Cựu ở Trung Việt, Trường Ban Mê Thuột ở Cao Nguyên, Trường Binh Động ở Bắc Việt.
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam rập theo khuôn mẫu quân đội Pháp. Tổ chức nhằm tiến tới tối tân. Ngoài những đơn vị lục quân, tất cả các Binh Chủng khác cũng đồng thời được nghiên cứu huấn luyện và thiết lập.
Về Không Quân, chính phủ mở mang phi trường huấn luyện ở Nha Trang và gửi nhiều sinh viên đi theo học tại các Phi Trường Marrakech, Fez v.v…
Nhờ những phi cơ kiểu Becchcrft một phi đội liên lạc đầu tiên đã được thành lập. Trong các cuộc hành quân, sĩ quan Không Quân Việt Nam đã chỉ huy đoàn phi cơ trinh sát, thám thính trên chiến trường.
Về Thủy Quân, từ tháng chạp 1951. Chính phủ Trần Văn Hữu đã đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trung Tâm Huấn Luyện và đến chính phủ Nguyễn Văn Tâm, ngành đó thêm phần tiến triển mạnh mẽ.
Nhờ Thủy Quân Pháp cho mượn chiếc pháo thuyền Digitale, những học sinh có thể học từng đợt chừng 30 người một và mỗi năm từ 250 đến 300 thủy binh.
– Bổ túc Sinh Viên Sĩ Quan.
– Đào tạo Sĩ Quan Hải Quân.
– Huấn luyện thủy binh chuyên môn.
Vì tình thế cấp bách phải cần ngay một số thủy binh để sử dụng những giang thuyền tuần thám trên sông và ven bể, Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang đã tổ chức những buổi học tập sự trên chiếm hạm lớn như Mẫu Hạm Arrorgnon de Brazza…Sau đó các học sinh được qua một kỳ thi để có thể trở nên Chuẩn Úy hoặc Thiếu Úy Thủy Quân.
Ngành Hải Quân rất khó khăn và đòi hỏi nhiều khả năng căn bản của học sinh cho nên, ngoài lối huấn luyện cấp tốc. Chính phủ còn mở thêm những kỳ thị để tuyển sinh viên theo học các Trường Sĩ Quan Hải Quân ở Pháp.
Tương lai Hải Quân Việt Nam có nhiều hứa hẹn tốt đẹp. Chính phủ đang trù tính, thành lập 2 Đoàn Thủy Binh Xung Phong (Dinassaut) một Đội Pháo Thuyền bình trị, tuần thám.
Hiện nay, nhiệm vụ của Hải Quân Việt Nam còn nhỏ hẹp theo hoàn cảnh chiến trường nhưng không vì thế mà kém phát triển để theo kịp với nhịp tiến của các Binh Chủng khác.
Quân Đội Quốc Gia còn có thêm những đơn vị phụ thuộc như:
– Giao thông liên lạc.
– Truyền tin.
– Vận tải.
– Quân y và Nữ phụ tá quân đội v.v…
Các Binh Chủng Pháo Binh, Công Binh, Nhảy Dù đều được tăng cường.
Cũng là lần đầu tiên Việt Nam phát triển tổ chức quân đội nhảy dù. Trên những cơ sở ít ỏi và lẫn lộn trong quân đội Liên Hiệp Pháp, đơn vị Nhảy Dù Việt Nam đã lớn mạnh và dần dần có kinh nghiệm trong các cuộc hành quân liên tiếp, nhất là ở Bắc Việt. Đã có những trận nhảy dù đại quy mô đa số do binh lính Việt Nam tham dự như trận Lạng Sơn, Lào Kay (1953)…
Ngành Quân Y tương đối khá so với khu vực Việt Minh. Nhờ có đủ dụng cụ khoa học, đủ phương tiện tối tân, các Sĩ Quan Quân Y có thể dễ dàng làm trọn nhiệm vụ ở tiền tuyến cũng như ở hậu tuyến. Nhà thương riêng của quân đội được mở mang rộng rãi như nhà thương Võ Tánh ở Hà Nội và nhiều nhà thương chung cho tất cả các quân đội dự chiến trên chiến trường Việt Nam.
Đối với thương binh, chính phủ rất chú trọng săn sóc. Họ là những người đã hiến xương máu một cách cụ thể để đem lại an ninh cho quốc gia và họ đáng được ưu đãi. Không những cá nhân thương binh được nuôi dưỡng tử tế, chính phủ còn nghĩ đến cả gia đình của họ. Chính phủ dành quyền ưu tiên nâng đỡ công ăn việc làm cho vợ con các chiến sĩ đã bỏ mình trên chiến địa. Bộ Quốc Phòng còn thiết lập Trường Thiếu Sinh Quân thu nhận những con cái của các quân nhân để dậy dỗ và huấn luyện những thiếu nhi đó sau này trở nên những người lính hoàn toàn.
Trong khi những thương binh của Quân Đội Quốc Gia được chăm nom chu đáo tại các nhà thương rộng thoáng, vệ sinh thì các an dưỡng đường của cục quân y Việt Minh bẩn thỉu và chui rúc trong các xó rừng sâu thẳm, thiếu thuốc men, thiếu dụng cụ tối tân và thiếu cả cán bộ quân y coi sóc.
Trong khi thương binh vùng quốc gia được nuôi dưỡng và theo dõi đến cả đời sống sau lúc đã rời khỏi dưỡng đường thì thương binh trong vùng Việt Minh phải lê tấm thân tàn phế vất vưởng tìm kế sinh nhai, sống không bảo đảm. Họ phải tìm sinh sống bằng cách gia nhập các trại thương binh, ở đó họ phải xuất tàn lực ra làm công việc tăng gia sản xuất để tự cung tự cấp hoặc làm các công việc đan rổ, đan rá bán cho dân chúng. Nếu không, họ sẽ bị trả về cho dân chúng và tự dân chúng phải tổ chức giúp đỡ họ trong chuỗi ngày xót lại đầy đau khổ. Những sự săn sóc của Việt Minh đối với họ thật đã không xứng đáng với tinh thần hy sinh của họ trên chiến địa.
Tháng 2 năm 1953 tại Hội Nghị Quân Sự Tối Cao họp tại Đà Lạt, phái đoàn Pháp đã đồng ý sẽ chuyển giao lại bất cứ một khu vực nào cho Quân Đội Việt Nam khi Việt Nam yêu cầu. Bởi vậy, trong mùa Hạ năm 1953, các Phân Khu Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh được giao lại cho Quân Đội Việt Nam đã trưởng thành và còn thêm nhiều khu vực khác ở Trung Việt và Bắc Việt.
Những đơn vị đặc biệt cũng được dần dần chuyển qua sự chỉ huy của Sĩ Quan Việt Nam như đơn vị Lưu Động tại Na Sản.
Điểm đáng nhấn mạnh hơn cả là sự thành lập các Tiểu Đoàn Khinh Quân Việt Nam.
Kể đến tháng 6 năm 1953, Việt Nam đã có 9 Tiểu Đoàn Kinh Quân đang được huấn luyện. Chính phủ dự định trong năm 1953 phải có 54 Tiểu Đoàn Khinh Quân.
Tiểu Đoàn Khinh Quân là những đơn vị nhẹ có thể dễ dàng theo dõi Việt Minh khắp nơi thôn xóm rừng hoang mà không sợ vướng víu bận rộn vì những vũ khí nặng nề cồng kền. Các đơn vị Khinh Quân Việt Nam đã làm cho đối phương phải chú ý, e ngại. Sự thật, riêng Kinh Quân cũng chưa đủ để đối chọi với các binh đoàn mạnh của Việt Minh nhưng sự tiến bộ không ngừng của nó cả về phẩm lẫn lượng đã làm cho Việt Minh phải lo đến số phận tương lai.
Số lượng các đơn vị Khinh Quân có thể một ngày gần đây lên tới hàng 100 Tiểu Đoàn và sẽ được chia đi lưu động chiến đấu khắp nơi trên đất Việt.
Qua một thời gian 6 tháng, đến tháng Giêng năm 1953 chính phủ Nguyễn Văn Tâm cải tổ.
Nội Các mới gồm những vị:
• Nguyễn Văn Tâm: Thủ Tướng chính phủ
• Lê Văn Hoạch: Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Bộ Thông Tin Tuyên Truyền.
• Nguyễn Huy Lai: Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Tài Chính-Kế Hoạch-Kiến Thiết.
• Trương Vĩnh Tống: Tổng Trưởng Bộ Ngoại Giao.
• Nguyễn Văn Nhung: Tổng Trưởng Bộ Kinh Tế.
• Phan Văn Hy: Tổng Trưởng Bộ Cựu Chiến Binh và Phế Binh.
• Lê Quang Huy: Tổng Trưởng Bộ Giao Thông Công Chính Bưu Điện. Quyền Tổng Trưởng Bộ Quốc Phòng.
Tháng 6 năm 1953 Thủ Tướng ủy nhiệm:
• Bác Sĩ Phan Huy Quát giữ chức Tổng Trưởng Bộ Quốc Phòng.
• Lê Văn Nẩm: Tổng Trưởng Bộ Tư Pháp.
• Cung Đình Quỳ: Tổng Trưởng Bộ Canh Nông.
• Nguyễn Thành Giung: Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục.
• Tấn Hàm Nghiệp: Tổng Trưởng Bộ Y Tế.
• Lê Thăng: Tổng Trưởng Bộ Xã Hội Lao Động.
• Lê Quang Hộ: Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ.
• Vũ Hồng Khanh: Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên và Thể Thao.
• Đào Đăng Vỹ: Bộ Trưởng Dinh Thủ Tướng.
Nội Các mới thêm sinh lực mới trong công cuộc tiễu trừ cộng sản trên toàn diện.
Trước hết chính phủ tiếp tục tăng cường Quân Lực Quốc Gia.
Chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Hiệp Pháp, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam trưởng thành. Trong tất cả mọi cuộc hành quân có người lính Việt Nam tham dự, những vị Tướng, Tá Pháp về hình thức đã phải thành thực khâm phục lòng dũng cảm và sự tiến bộ của người lính Quốc Gia Việt Nam.
Sự tiến triển của Quân Đội Quốc Gia vấp phải hai trở lực khó khăn nhất: Khó khăn về vấn đề chi tiêu quân sự và vấn đề sĩ quan.
Chính phủ Quốc Gia Liên Hiệp đã cố hết sức giành phần lớn ngân quỹ dùng về quân sự. Năm 1951, 15% ngân sách quốc gia được dùng để tổ chức bộ đội. Dự án năm 1952 là 800 triệu đồng nhưng thực sự đã lên đến 1.750.000.000 đồng, 58% ngân sách. Năm 1953, chính phủ dành riêng cho việc tổ chức quốc phòng số tiền sấp sỉ 3.000.000.000 đồng, 70% ngân sách. Số tiền khổng lồ đó đủ chứng tỏ sự lớn mạnh của toàn thể Quân Đội Quốc Gia trong năm 1953.
Còn vấn đề sĩ quan, một vấn đề không kém phần quan trọng.
Số lượng quân lính nhiều bao nhiêu, sĩ quan và hạ sĩ quan phải nhiều lên bấy nhiêu. Quân Đội càng tăng, đơn vị càng phải lớn và quan trọng. Ngoài những sĩ quan hàng Úy, chỉ huy các đại đội, cần phải huấn luyện gấp rút số sĩ quan hàng Tá, sĩ quan hàng Tướng và sĩ quan Tham Mưu.
Vấn đề chỉ huy là một việc trọng đại khi phải sử dụng hàng vài sư đoàn trên chiến trường rộng lớn, người chỉ huy trưởng, ngoài đức dũng cảm và trí kiên quyết thường xuyên của một chiến sĩ, lại còn phải là một nhà bác học về khoa quân sự. Nào lục quân, nào không quân, thủy quân, nào pháo binh, trinh sát, giao thông liên lạc, rồi chiến thuật tác chiến, rồi kỹ thuật sử dụng vũ khí, sử dụng binh lính v.v…tất cả tập trung dưới quyết định hết sức nhanh chóng của một người. Do đó sĩ quan cao cấp không thể đào tạo dễ dàng trong một khoảng thời gian ngắn ngủi được. Cần phải có những phần tử thật ưu tú để đảm đương trọng trách trên những chiến trường mỗi ngày mỗi rộng. Vấn đề cấp bách này đã được Bộ Quốc Phòng nghiên cứu cẩn thận trong chính sách huấn luyện các cấp chỉ huy tương lai.
Tháng 6.1953, Quốc Trưởng ký một Đạo Dụ về vấn đề quân dịch, quy định nhiệm vụ của người dân Việt Nam trong thời chiến đối với công việc tham gia quân đội. Tất cả công dân Việt Nam (nam giới) từ 20 tuổi trở lên đều phải qua một thời kỳ quân dịch trừ khi được chính thức công nhận là không có đủ sức khỏe. Quân dịch là một vấn đề phải có trong mọi thời kỳ quân dịch trừ khi được chính thức công nhận là không có đủ sức khỏe. Quân dịch là một vấn đề phải có trong mọi quốc gia tự do, độc lập. Công dân Việt tới 19 tuổi đều phải trình diện tại Hội Đồng Kiểm Tra Trưng Binh để xét sức khỏe.
Mỗi năm lại có sự kiểm tra trưng binh những thanh niên đã được kiểm tra trong vòng năm trước. Hội Đồng Kiểm Tra Trưng Binh có nhiệm vụ kiểm soát lại sổ kiểm tra, sửa đổi khi có sự sai lầm hay không hợp thời, định đoạt trong mọi trường hợp tranh tụng về những thanh niên và hộ tịch có sự đáng ngờ định đoạt về năng lực thể chất của từng người để thi hành nhiệm vụ, biên dịch, sưu tầm theo huấn lệnh chính phủ, các tài liệu về thống kê hoặc về dân số học nhân loại trác định pháp hoặc về sức khỏe công cộng. Mỗi tỉnh, mỗi thị xã sẽ có một Hội Đồng Kiểm Tra Trưng Binh.
Đồng thời với công việc Kiểm Tra Trưng Binh toàn quốc, chính phủ đã liên tục đào tạo hàng ngàn hạ sĩ quan trừ bị tại các trung tâm huấn luyện kỹ thuật địa phương và thiết lập Trường Cao Đẳng Võ Bị.
Tháng 10 năm 1953, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Phan Huy Quát đã cho biết những phương pháp mới mẻ sẽ được áp dụng trong công việc đào tạo sĩ quan như dưới đây:
‘’Theo các nhà chuyên môn về quân sự thấu hiểu vấn đề hiện tại, nước Việt Nam có thể có đủ sĩ quan có tài năng để đảm nhiệm việc chỉ huy bộ đội trong đủ mọi cấp. Việc khẩn yếu là kiểm tra các phần tử có tài năng và huấn luyện cho họ thành các sĩ quan có đủ năng lực và điều kiện chuyên môn. Điều kiện cốt yếu sẽ không phải là cấp bực trong quân đội, tuổi nhiều hay ít và học lực nhưng là năng lực chỉ huy.
Nước Việt Nam đang đứng trong một tình trạng khẩn yếu và đặc biệt, vì vậy chính sách huấn luyện cán bộ Quân Đội Quốc Gia cũng phải dùng những phương pháp đặc biệt ngoài những phương pháp thường xuyên.
Các phương pháp thường xuyên vẫn áp dụng từ trước đến nay cũng cần phải được sửa đổi.
Điều đầu tiên là tất cả sĩ quan hiện tòng sự trong các Bộ Tham Mưu, các Nha, các Sở, các phòng giấy và giữ một nhiệm vụ có thể do công chức thường đã quá tuổi động viên thay thế được sẽ hoặc ra chỉ huy bộ đội ở tiền tuyến hoặc đi theo lớp huấn luyện cao cấp hơn.
Điều thứ hai là các lớp huấn luyện sĩ quan cấp Úy và hạ sĩ quan sẽ dần dần hoàn toàn dậy bằng tiếng Việt.
Từ trước đến nay, chính phủ gọi nhập ngũ các thanh niên có bằng cấp Đại Học, Trung Học hay Cao Đẳng Tiểu Học hay có học lực tương đương.
Nhưng số gọi thanh niên nhập ngũ nhiều hơn gấp bội số thanh niên học sinh nên không bao lâu nữa có lớp dậy quân sự bằng tiếng Pháp sẽ không có học trò nữa. Ngoài ra ta cũng có một số thanh niên có học lực tương đương, có bằng cấp Trung Học hay Cao Đẳng Tiểu Học nhưng học ở các Trường Trung Học quốc gia hay ở hậu phương nên không có học lực sinh ngữ Pháp đủ để theo các lớp huấn luyện quân sự dậy bằng tiếng Pháp. Vì vậy việc dậy bằng tiếng Việt là một sự cần thiết nếu ta muốn các lớp huấn luyện sĩ quan có nhiều học sinh.
Điều thứ ba của phương pháp thường xuyên là sẽ có các lớp huấn luyện cấp tốc riêng cho các sĩ quan, hạ sĩ quan có năng lực chỉ huy và có kinh nghiệm chiến tranh để có thể không kể tuổi, học lực hoặc cấp bậc trong quân đội, bổ nhiệm tạm thời ngay vào các cấp chỉ huy cao hơn. Nếu trong một thời gian ngắn, các phần tử đó tỏ ra có đủ năng lực để chỉ huy, thì sẽ được bổ nhiệm thực thụ vào cấp chỉ huy tương đương.
Bộ Quốc Phòng mới tổ chức tại Hà Nội một ‘’Trung tâm nghiên cứu quân sự’’ để huấn luyện các Đại Úy và các sĩ quan cấp Tá. Ngoài ra lại còn đang trù liệu để tổ chức một Trường Cao Đẳng chiến tranh có mục đích huấn luyện các sĩ quan chỉ huy cao cấp các đơn vị quan trọng và các sĩ quan chỉ huy các Bộ Tham Mưu.
Các trường huấn luyện quân sự hiện có hoặc sắp được tổ chức sẽ cố gắng hoạt động để các học sinh được đông đảo hơn và thời hạn huấn luyện được nhanh chóng hơn ngõ hầu bộ đội có đủ cán bộ chỉ huy.’’
Nói đến phương pháp đặc biệt, ông Tổng Trưởng Quốc Phòng cho biết:
‘’Cần phải áp dụng các phương pháp đặc biệt để đối phó với tình thế đặc biệt và với nhu cầu đặc biệt và khẩn cấp về các cấp chỉ huy quân đội. Những phương pháp này chỉ sẽ dùng trong tình thế chiến tranh hiện tại.
Phương pháp đặc biệt đầu tiên được trù liệu là việc dùng các công chức hay thường dân đã quá tuổi động viên và có đủ năng lực để thay thế các sĩ quan trong các việc thường xuyên ở các Bộ Tham Mưu, các Nha, Các Sở và các Phòng giấy.
Các nhân viên này sẽ phải được tập sự trong một ít lâu và sẽ thay thế hẳn các sĩ quan hiện dịch và các sĩ quan trừ bị để cho các phần tử này ra tiền tuyến hay theo học các lớp huấn luyện quân sự cao cấp.
Phương pháp thứ hai là kiểm tra các phần tử, vì tình thế chiến tranh hiện tại, có kinh nghiệm về việc chỉ huy quân đội và tỏ ra có năng lực thật sự. Đối với các phần tử này Bộ Quốc Phòng sẽ mở lớp huấn luyện riêng rồi tùy theo năng lực sẽ bổ nhiệm tạm thời ra chỉ huy bộ đội tại mặt trận hay tòng sự tại các Bộ Tham Mưu tác chiến. Nếu các sĩ quan này tỏ ra xứng đáng để chỉ huy một đơn vị nào thì sẽ được bổ nhiệm thực thụ vào cấp bực đó.
Phương pháp đặc biệt thứ ba là kiểm điểm các hạ sĩ quan có kinh nghiệm chỉ huy và tỏ ra có can đảm và năng lực ở tiền tuyến để bổ nhiệm họ lên cấp sĩ quan với tính cách tạp thời và cũng như tôi đã nói trên, nếu họ tỏ ra xứng đáng với chức vụ mới thì sẽ được thực thụ bổ nhiệm. Phương pháp này sẽ khuyến khích toàn thể các phần tử Quân Đội Quốc Gia và cho họ có dịp để biểu lộ tài năng.
Phương pháp đặc biệt thứ tư là chọn các thanh niên có đủ học lực để huấn luyện họ thẳng làm sĩ quan chuyên môn như ngành cơ giới, pháo binh, công binh v.v…
Nói tóm lại chính sách huấn luyện cán bộ quân sự dùng đủ mọi phương pháp kể cả phương pháp cách mạng, mục tiêu cốt để tìm kiếm và huấn luyện trong một thời gian ngắn nhất các sĩ quan đủ các cấp có năng lực và kinh nghiệm để chỉ huy Quân Đội Quốc Gia và để đối phó với mọi biến chuyển của thời thế’’.
Từ trước, Quân Đội Quốc Gia mới chỉ được nhào nặn trong những hệ thống làm việc cố định và do những phương pháp cổ điển, cứng nhắc, không hợp với tình thế và hoàn cảnh của Việt Nam. Nếu những phương pháp mới mẻ và hợp thời hiện nay của Bộ Quốc Phòng khai thác được hết khả năng quân sự của tất cả các người hoặc có khiếu về quân sự hoặc kinh nghiệm bản thân trong sự chiến đấu trên chiến trường thì nhất định Quân Đội Quốc Gia Việt Nam sẽ có dịp tiến bộ và tiến một cách vượt bực.
Nhiệm vụ Quân Đội Quốc Gia rất nặng. Thế giới tự do đã chú mục đến những người lính Việt Nam trên đồng ruộng Việt Nam.
Quân Đội Quốc Gia không còn chiến đấu lẻ biệt để riêng phụng sự cho nước Việt Nam nhỏ bé mà đã có nhiệm vụ tiên phong trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản của toàn thể thế giới tự do dưới sự lãnh đạo chiến lược đại cường quốc dân chủ Hoa Kỳ.
Sức chiến đấu của người lính quốc gia tuy chưa hẳn là cốt cán trong quân lực nói chung trên chiến trường Việt Nam nhưng không vì thế mà kém phần anh dũng.
Trong năm 1953, chính phủ đã tuyên dương công trạng cho biết bao nhiêu anh hùng chiến sĩ hoặc còn sống hoặc đã bỏ mình trên chiến địa. Những chiến sĩ ấy tỏ ra can đảm phi thường khi xông pha ngoài chiến trường.
Đó là những anh hùng quân đội của chính nghĩa quốc gia, những người Binh Nhì như Châu Dum, anh hùng bắn súng máy ở Đèo Hải Vân trong Đệ Nhất Tiểu Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam, Binh Nhì Đoàn Ngọc Chiêm, Trần Ngọc Dinh, anh hùng trong Đệ Tam Tiểu Đoàn Nhẩy Dù vùng Hải Dương Bắc Việt, Hạ Sĩ Phùng Minh Xuân nổi danh trong cuộc hành binh ở Da Ban, Trung Việt, Trung Sĩ Vương Hữu Hào, Trần Quang Vinh, anh hùng của tháp canh TRV-993 Biên Hòa v.v…Tất cả còn nhiều không thể kể xiết, đã ngã trong danh dự.
Dưới danh từ ‘’lực lượng’’ trong vùng quốc gia, ngoài quân đội chính quy trực thuộc hẳn hoi trong hệ thống nhất định của chính phủ Quốc Gia Liên Hiệp, mỗi địa phương Trung-Nam-Bắc còn có những tổ chức quân sự riêng biệt hoặc hoạt động dưới quyền Thủ Hiến Phủ do ngân sách địa phương đài thọ, hoặc hoạt động dưới sự chỉ đạo của các nhóm tôn giáo, chính trị.
Ở Bắc Việt, không kể Bảo Chính Đoàn nguyên Thủ Hiến Phạm Văn Bình đã khởi xướng việc thành lập quân thứ lưu động và hiện kim Thủ Hiến Nguyễn Hữu Tri còn thành lập và phát triển Địa Phương Quân. Địa Phương Quân là những chiến sĩ áo nâu, chiến sĩ nơi đồng ruộng có nhiệm vụ giữ làng giữ xóm trực tiếp đối đầu với lực lượng du kích của đối phương. Họ là những ‘’du kích thoát ly sinh sản, Việt Minh có hai loại du kích, một là du kích thoát ly sinh sản hai là hạng dân quân du kích tự cung, tự túc. Hạng trên được tập hợp có hệ thống và biên chế rõ rệt được địa phương đài thọ, họ chiến đấu và tiến dần thành bộ đội địa phương, thường gọi là chủ lực địa phương. Trái lại, hạng dưới chỉ là thường dân, khi hết nhiệm vụ sản xuất ở đồng ruộng lại đóng vai canh gác, tuần thám như tài liệu chính trị, tin tức, sách báo…’’
Ở Bắc Việt còn có một lực lượng địa phương khá hùng hậu và đầy đủ tinh thần chiến đấu, đó là những lực lượng Công Giáo vùng Bùi Chu-Phát Diệm. Họ tuy không thuộc hạng lính chuyên việc ‘’tấn công địch’’ nhưng vì vùng Công Giáo là chiến trường gay gắt và dai dẳng nhất Bắc Việt nên vô hình chung họ đã trở thành những người lính chiến kiên nhẫn và mạnh dạn cố thủ giữ quê hương.
Tại miền Trung, Thủ Hiến Phan Văn Giáo thành lập Nghĩa Dũng Đoàn để bảo vệ tài sản và sinh mệnh của dân chúng. Nói đến Nghĩa Dũng Đoàn ở Trung Việt ngày nay tất phải nhớ đến truyền thống khá oanh liệt của Việt Binh Đoàn mà tiền thân là Bảo Vệ Quân do Hội Đồng Chấp Chánh tổ chức ra 7, 8 năm về trước. Tất cả những kinh nghiệm và tinh thần chiến đấu của Việt Binh Đoàn ngày nay Nghĩa Dũng Đoàn tất nhiên mặc hưởng và phát triển trong sứ mạng bình định miền Trung nước Việt.
Nói đến miền Nam, những tổ chức quân sự riêng lẻ thật là dồi dào. Quân đội Bình Xuyên, quân đội Hòa Hảo, quân đội Cao Đài. Những đoàn quân riêng biệt ấy không trực thuộc trong hệ thống Quân Đội Quốc Gia, cũng không trực thuộc dưới quyền Thủ Hiến Phủ Nam Việt. Những nhóm quân sự hùng mạnh đó chịu dưới quyền đặc biệt của các Tướng lĩnh địa phương (Bình Xuyên) hoặc của các lãnh tụ tôn giáo (Cao Đài, Hòa Hảo).
Riêng về vấn đề quân sự, sau hơn một năm hoạt động, chính phủ Nguyễn Văn Tâm đã cố gắng thực hiện công cuộc phát triển Quân Lực Quốc Gia, số lượng mới đây hàng vạn đã lên đến hàng chục vạn. Đó là một thành tích rất đáng kể. Tuy nhiên muốn được thập phần hoàn hảo, cần phải cương quyết vượt qua nhiều nhược điểm và sửa chữa nhiều khuyết điểm như vấn đề chưa thống nhất, đoàn kết được tất cả các lực lượng quân sự dưới hẳn một hệ thống tổ chức nhất định để cùng hành động trong một chiến lược chung, hai là vấn đề tư trưởng phục vụ nhân dân trong quân đội chưa được chỉnh bị khiến cho thường khi có những việc làm tắc trách trong công cuộc bình trị, vấn đề thứ ba là tư tưởng chính trị chưa được hoàn toàn phổ biến, còn cần phải làm thế nào cho quân sĩ quan niệm thật rõ rệt và vững chắc ý nghĩa về sự chiến đấu của họ.
Chừng nào câu nói ‘’Nhận cho mình nhiều vùng chiến đấu mới’’ được kết quả hoàn toàn cả bề sâu lẫn bề rộng, chừng đó Quốc Gia Việt Nam mới có thể hãnh diện vì những vượt bực cố gắng của mình, Quân Đội Việt Nam sẽ kiêu hãnh vì thành tích oanh liệt vẻ vang của mình.
Quân Lực Việt Nam bành trướng, vùng quốc gia sẽ càng ngày càng mở rộng và dân chúng sẽ theo chính phủ quốc gia nhiều hơn nữa. Mất dân chúng, Việt Minh sẽ mất hẳn yếu tố quyết định sự sống còn của họ.
Trong phạm vi Kinh Tế, Nội Các Nguyễn Văn Tâm đã thu hoạch được nhiều kết quả đẹp mặc dầu đang phải chuyên chú đến vấn đề xây dựng Quân Đội Quốc Gia, mặc dầu tình thế còn phô bầy một thực trạng đáng lo ngại.
Vì chiến tranh. nhất là chiến tranh du kích và chính sách vườn không nhà trống, nước Việt Nam đã nghèo nay lại sơ xác thêm. Muốn thực hiện một nền kinh tế khả dĩ có thể tự túc, trước hết phải lo giải quyết vấn đề nhân khẩu mà đại đa số là nạn nhân chiến tranh, mất hết sản nghiệp, đang bị nạn đói, rét đe dọa. Chính phủ giải quyết ngay vấn đề đó rồi mới mong tính đến khai thác được sức lao động của nhân dân, phục vụ nền kinh tế quốc gia non yếu.
Đất Bắc là nơi chiến tranh tàn khốc nhất. Theo kế hoạch ngăn chặn nguồn tiếp tế của Việt Minh, Liên Quân Việt-Pháp đã chẳng nề hà phá tan các kho dự trữ lương thực của địch ở khắp nơi, trái lại để tăng cường số lượng dự trữ của mình, Việt Minh đã đánh ập vào các vùng đồng ruộng phì nhiêu cướp thóc lúa trong mùa gặt hái, đồng thời bao vây cấm ngặt việc chuyển gạo vào các thị thành. Do đó, Bắc Việt đã trải qua nhiều lần gạo cao giá. Nhờ khả năng sản xuất gạo ở Nam Việt, nhờ phương tiện giao thông dễ dàng, mau chóng. Tổng Trưởng Kinh Tế Nguyễn Văn Nhung đã ban hành những biện pháp thích ứng, nhờ lòng tận tâm của các đương cục hữu trách, Bắc Việt đã tránh được những cuộc khủng hoảng gạo.
Dưới Nội Các Nguyễn Văn Tâm, vấn đề gạo nuôi sống nhân dân tương đối được thăng bằng, tất cả các ngành kinh tế khác nhờ đó đã tiến triển tuy chưa vượt mức nhưng cũng khá quan trọng.
Về Kinh Tế Nông Nghiệp, chính phủ hết sức giúp đỡ tài chính và hướng dẫn nhà nông tăng gia theo các phương pháp khoa học nên đã có những tiến bộ cụ thể.
Trước hết, trên tư tưởng, chính phủ đã dung hòa được quyền lợi các giai cấp trong đám nông dân: Phú nông, trung nông, tiểu nông và bần cố nông và ngược lại hạng bần cố nông trong khi tiến tới hưởng quyền sở hữu chủ ruộng đất bằng cách tự xuất sức lao động, đã không quá trớn thủ tiêu quyền lợi cố hữu của giai cấp điền chủ.
Trên địa hạt sản xuất, phát triển nông nghiệp, nhất là sản xuất thóc lúa, chính phủ đã đạt được những mục tiêu đáng kể.
Nếu kinh tế nông nghiệp, chia ra nhiều khu vực:
– Canh tác về thóc lúa.
– Thủy nông.
– Trồng trọt thực phẩm.
– Chăn nuôi.
– Khai thác lâm sản.
– Hầm mỏ.
– Ruộng muối.
– Thóc lúa được đặt lên hàng đầu trong nền kinh tế nông nghiệp. Đối với đông đảo nhân dân ở Á Đông, hạt thóc đã được gọi là ‘’ngọc thực’’. Trận chiến tranh giữa Việt Minh và Liên Quân Việt-Pháp đôi khi đã có những chiến dịch mệnh danh là chiến dịch thóc lúa. Đối với Việt Minh, hạt thóc quyết định chiến trường. Trong vùng quốc gia cũng vậy, hạt thóc quyết định tất cả, mọi hoạt động đều phải chịu ảnh hưởng ở vấn đề thóc gạo.
Từ ngày xảy ra chiến tranh, ruộng đất bỏ hoang kể hàng vạn mẫu tây trong toàn quốc. Bộ Canh Nông dưới quyền Tổng Trưởng Cung Đình Quý đã cố gắng thực hiện việc canh tác trên những thủa ruộng hoang. Mỗi năm số diện tích những đồng ruộng được cầy cấy lại, được tăng một cách khả quan. Trong năm 1952, tổng số tính theo mẫu tây tăng được 8.710 và cuối năm 1953, tại khắp lãnh thổ Việt Nam, nhà nông đã cầy cấy trong khu vực quốc gia năm 1953, lên tới 2.016.850 mẫu tây.
Với những phương pháp tinh xảo và được giúp đỡ thóc giống, phân bón hóa học, nhà nông Việt Nam, đã sản xuất trong năm 1952 trên hai triệu rưỡi tấn gạo trong năm 1953, 2.763.300 tấn gạo.
Sở dĩ tiến bộ được như thế vì quần chúng nông gia sống tương đối yên ổn trong khu vực quốc gia kiểm soát đã tích cực cố gắng đổ mồ hôi trên đồng ruộng và cũng nhờ ở chính phủ đã dành riêng một số tiền cho kế hoạch canh tác.
Từ 713.750 đồng năm 1951 dưới Nội Các Trần Văn Hữu, vốn xuất trong năm 1952 đã lên tới 6.279.000 đồng và năm 1953 cũng 6 triệu đồng.
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm còn dành riêng một ngân khoản 10.000.000 trong số tiền viện trợ Mỹ, hợp với 5.000.000 đồng của Sở Quốc Gia Tín Dụng Hợp Tác Canh Nông và Tiểu Công Nghệ dùng trong chương trình vay mượn ngắn hạn cho các tá điền và tiểu điền chủ. Tuy chương trình này mới chỉ áp dụng với nông dân các miền Chợ Lớn, Gia Định, Mỹ Tho, Tân An, Gò Công ở Nam Việt nhưng rồi đây nông dân toàn quốc cũng sẽ phải được hưởng theo.
Nếu trong vùng Việt Minh hạt thóc đã gây bao khốn cực cho đời sống bình nhật của nông dân thì ở vùng quốc gia, dưới chính phủ Nguyễn Văn Tâm và dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Trưởng Canh Nông Cung Đình Quý, nhà nông đã tạm đủ thóc lúa tự túc, thị thành thoát khỏi nạn khan gạo, một điều đáng lo sợ cho tất cả mọi người.
– Số lượng thóc lúa tăng tiến một phần cũng do công cuộc thủy nông được mở mang.
Gạo Nam Việt nhiều hơn ở Bắc và Trung vì không những ở Nam đồng ruộng nhiều hơn lại còn được hưởng đầy đủ số nước cần thiết cho cây lúa do công cuộc thủy lợi và do mưa gió điều hòa hơn ở Trung Bắc. Tại Bắc Việt, một vài nơi như Thanh Hóa, Sơn Tây, Bắc Giang có những ‘’nông giang’’ luôn luôn tưới nước mát cho đất mầu nhưng phần lớn đồng ruộng những tỉnh ấy đều dưới quyền kiểm soát của Việt Minh.
Chính phủ đã xúc tiến công việc sửa chữa sông đào sửa chữa đê điều trị thủy và tu bổ các cống nước, đập nước tiện cho nông gia sử dụng. Riêng với công việc thủy lợi chính phủ đã phải tiêu tốn hàng chục triệu (năm 1952 hết 12.747.000 đồng và năm 1953 hết 20 triệu đồng).
– Ngành trồng trọn hoa mầu khác ngoài thóc lúa của được Bộ Canh Nông rất chú trọng. Tại các vùng đất đai chỉ có thể sản xuất được ngô, khoai, sắn hoặc các thứ thực phẩm như dưa, cà, bí, đỗ, lạc v.v…nông gia được hưởng và sử dung một ngân khoản riêng dành cho họ. Nhờ sự nâng đỡ đó các nhà nông trồng trọn hoa mầu thực phẩm đã sản xuất được nhiều và tăng tiến công việc đồng áng của họ.
– Về chăn nuôi, chính phủ bỏ ra một số tiền là 20 triệu đồng năm 1952 và 22 triệu trong năm 1953. Với tiền giúp đỡ, đồng bào thôn quê tránh được nạn thiếu trâu bò cầy cấy và có thể khẩn trương công việc chăn nuôi gia súc.
Nếu dân chúng sống trong vùng Việt Minh bắt buộc phải hạn chế sát sinh trâu bò thì ở vùng quốc gia, dân chúng đã được hưởng thụ đầy đủ những thức ăn cần thiết.
Ngành lâm sản cũng có riêng một ngân khoản quan trọng 122.000.000 đồng trong năm 1952 và 146.500.000 trong 1953.
Số gỗ dùng vào công việc xây dựng mỗi năm hàng hai chục vạn thước khối mặc dầu phần lớn rừng núi vẫn thuộc vùng của Việt Minh đóng giữ.
Củi đun mỗi năm tiêu thụ chừng năm chục vạn tạ và than gỗ có thể sản xuất được hàng vạn tấn.
Công tác sản xuất nhựa thông ở vùng Cao Nguyên cũng được nghiên cứu và cải cách phương pháp lấy nhựa.
Các đồn điền cao xu lại được khai thác sau khi đã diệt trừ được những sự len lõi phá phách của du kích Việt Minh. Số lượng sản xuất mỗi ngày mỗi tăng. Năm 1951, Việt Nam đã sản xuất được 37.278 tấn nhựa cao xu năm 1952, số tấn lên đến 45.062.
– Nói đến hầm mỏ, nhất là ở Bắc Việt, các Công Ty đã rất tiến bộ từ khi chính phủ Quốc Gia Liên Hiệp bắt tay vào việc. Đặc biệt nhờ sự săn sóc của Mỹ trong phạm vi máy móc và kỹ thuật khai thác, các công ty mỏ than đã nỗ lực không ngừng phát triển.
Mức sản xuất tăng rất đều. Từ hơn 6 chục vạn tấn than đá năm 1951 đã lên đến 9 chục vạn tấn năm 1952. Những năm tới số lượng sản xuất than đá sẽ phải tăng vượt mức vì lý do an ninh đã gần hoàn toàn trở lại trong khu vực hầm mỏ và nhờ ở sự hỗ trợ của chính phủ Việt Nam, nhờ cố gắng của nhà chuyên môn kỹ thuật.
– Muối là món thực phẩm quan trọng chẳng kém gì thóc gạo nên kỹ thuật sản xuất muối biển được cải tiến. Năm 1952, số lượng sản xuất muối là 143.200 tấn và năm 1953, sẽ có thể hơn nữa, không những đủ dùng trong dân chúng mà còn thừa để xuất cảng.
Vấn đề Công Kỹ Nghệ nói chung vẫn chậm tiến. Kỹ nghệ nặng chưa được xây dựng vì thế phần lớn những nhu cầu cần thiết cho Quốc Phòng phải trông mong vào viện trợ của Hoa Kỳ và Pháp. Tiểu công nghệ như nghề làm dầu nhớt, xà phòng hay việc sản xuất bông, tơ…chưa được khả quan vì lẽ thiếu nhiều nguyên liệu và máy móc cần dùng.
– Về ngành Giao Thông Công Chính, chính phủ đặt một chương trình hoạt động trường kỳ và khoa học. So với ngành giao thông kém cõi lạc hậu của Việt Minh phương tiện giao thông trong vùng quốc gia đã hơn hẳn, vừa đầy đủ phương tiện, vừa nhanh chóng dễ dàng.
Bộ Giao Thông Công Chính đã tích cực trong công cuộc sửa sang các hải cảng và các đường giao thông mặt thủy như vét bùn ở bến tầu, các kho hàng ở bến, khơi sông v.v…Dân chúng đã có thể dùng đường thủy để thông thương vừa tiện lợi vừa rẻ tiền. Quốc Gia Việt Nam đã có nhiều tầu thủy kiểu LCT như tầu Bạch Đằng Giang, tầu Hàm Tử Quan, tầu Chương Dương Độ.
Việc giao thông trên đường bộ đã gặp nhiều trở lực rất gay go vì chiến thuật phá đường của Việt Minh. Đã có rất nhiều chiến sĩ ngành Công Chính phải bỏ mình trong khi thi hành nhiệm vụ sửa chữa và giữ gìn đường xá. Nhờ những hy sinh đó mà hệ thống giao thông trên bộ được mở mang.
Số xe cộ đi lại trên đường bộ ngày một nhiều hơn trước, nhất là tại các thành phố lớn trên khắp lãnh thổ Việt Nam.
Những khoản chi tiêu về giao thông công chính đã tăng từ 113 triệu bạc (1951) lên đến 323 triệu bạc năm 1953 đủ chứng tỏ nỗ lực của chính phủ quốc gia về phương diện xây đắp đường giao thông.
Ngoài đường thủy và đường bộ, chính phủ mở mang thêm đường không vận bằng cách gián tiếp quan quản Công Ty Hàng Không Việt Nam, thỏa thuận cho những tư nhân ngoại quốc và Việt Nam đ?