Chương 1: Cội nguồn từ thời đồ đá đến thời đại đồ đồng - Thời đại đồ đá cũ và thời đại đồ đá mới
Nước Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á: Tại đây có những dấu hiệu được phát hiện cho thấy khỉ dạng người đã tìm xuất hiện ở nhiều nơi.
Tháng 8-1965, trong một hang động thuộc xã Tân Văn,tỉnh Lạng Sơn, người ta phát hiện di cốt của một vượn người, và những chiếc răng của một người vượn khác gần với người vượn Bắc Kinh hơn. Di cốt ấy đang được nghiên cứu, nhưng những nhận xét đầu tiên cho phép xác định thời điểm chúng xuất hiện là vào thời kì trung pleistocène (1) (khoảng 500.000 năm).
Các vết tích đầu tiên của một kỹ nghệ thực sự của con người được phát hiện tháng 11-1960, trên núi Đọ, tỉnh Thanh Hóa: ở một độ cao cách mặt ruộng xung quanh từ 20 đến 30m, người ta tìm thấy hàng nghìn mảnh tước dùng để cắt, cào. Trong số các mảnh tước có những nắm đấm hình hạnh nhân, hai mặt được gọt cẩn thận, điển hình cho thời kì chelléen. Điều đó khẳng định sự tồn tại của sơ kì đá cũ ở Việt Nam (một số nhà khảo học Việt Nam không công nhận điều này).
Trong nhiều hang động của các tỉnh Yên Bái, Ninh Bình, Quảng Bình với những lớp trầm tích chứa xương động vật thuộc thời kì hậu pleistocène , người ta đã phát hiện ra những chiếc răng và hàm của người vượn Homo sapiens (2). Vậy là con người vẫn tiếp tục tồn tại suốt một thời gian dài, cải tiến dần dần tuy rất chậm các công cụ của mình để tiến lên một kỹ nghệ hoàn thiện hơn.
Vào cuối thời đại đá cũ châu thổ sông Hồng chưa được phù sa lấp đầy, con người phải cư trú trong những khối núi đá vôi bao quanh các châu thổ, những khối núi này có nhiều hang động rộng rãi thuận tiện cho việc cư trú, gần các sông suối, rừng rậm sẵn thức ăn. Các hòn sỏi trong lòng suối cũng là nguyên liệu cần thiết để chế tác công cụ. Chính trong các hang động Hòa Bình và Bắc Sơn, người ta đã tìm thấy nhiều trung tâm văn hóa đồ đá, với những dụng cụ, những vật dụng hàng ngày, những dấu vết của bếp núc và những thứ được bỏ lại sau bữa ăn, chủ yếu là vỏ sò, ốc và xương thú.
Các công cụ được làm bằng đá đẽo còn thô kệch có hình dạng ê-líp, hình đĩa, hạnh nhân, làm thành những con dao, những cái cào, những rìu tay hình chữ nhật. Những hòn sỏi được dùng làm chày để giã các loại hạt. Dần dần xuất hiện loại rìu bằng đá mài, gọi là rìu Bắc Sơn. Các công cụ bằng xương hay sừng thú có vẻ không phổ biến. Có khả năng là cây tre, dễ sử dụng, được dùng rộng rãi cho nhiều việc khác nhau: cọc, tên bắn, dao và một gốc tre già được dùng để chứa đựng, thậm chí làm nồi để nấu thức ăn (cách làm này hiện nay vẫn còn phổ biến ở các miền núi).
Các thân tre, sọ dừa, vỏ bầu cũng được dùng làm vật đựng và nồi niêu. Vào thời kì Bắc Sơn, đồ gốm xuất hiện. Lúc đầu đất sét được nhào và nặn thành những khúc dài và tròn như những khúc dồi, rồi đem quấn lại để tạo thành những vật đựng hay những nồi niêu, sau đó người ta làm nhẵn cả mặt trong và mặt ngoài. Trong một số đồ vật được tìm thấy, người ta còn nhận ra những dấu vết chắc là của một thứ dụng cụ giống cái bay có buộc bằng một sợi dây leo, dùng để vỗ đất khi còn ướt. Nói chung, các đồ gốm còn thô kệch và được nung ở nhiệt độ không cao.
Hái lượm và săn bắn là những hoạt động chính, chưa có dấu vết của nông nghiệp, cũng không có dấu vết của gia súc, có lẽ trừ con chó.
Cũng vào thời kì ấy, ở các vùng ven biển Trung Bộ, con người sống chủ yếu bằng đánh cá và vỏ của những con sò (ruột sò dùng làm thức ăn) được chất thành những đống khổng lồ cao từ 5 đến 6m trải rộng trên nhiều nghìn mét vuông, điển hình nhất là trong vùng Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Trong các đông vỏ sò này, người ta cũng tìm thấy những xương thú (hươu, nai, trâu, chó) và những chiếc chày với cối bằng đá rỗng để nghiền các loại hạt. Nhiều công cụ bằng đá cũng được tìm thấy ở đấy.
Trong một đống vỏ sò ở Quỳnh Văn, đã tìm thấy nhiều ngôi mộ chôn tập trung thành nhóm, người chết được chôn ngồi, đầu gối gấp lại, với vài công cụ lao động và những vỏ sò, xương thú, hoặc bằng đá hay là những viên bi bằng đất nung có đục lỗ làm đồ trang sức. Trên mặt đồ gốm xuất hiện những hình vẽ trang trí; trên vách một cái hang ở tỉnh Hòa Bình, người ta tìm thấy một hình vẽ một con vật mình thú đầu người nhưng có sừng. Sự tồn tại của những vỏ sò trong những hang động ở xa biển cũng như những công cụ bằng đá ở những bờ biển không có nguyên liệu làm công cụ, có vẻ chứng minh rằng đã có những sự trao đổi giữa hai miền.
Có lý do đế nghĩ rằng vào cuối thời đại đá mới, cách đây năm, sáu nghìn năm, phần lớn các cư dân nguyên thủy đóng trên lãnh thổ hiện nay của Việt Nam đã bước vào kỉ nguyên trồng lúa. Những phát hiện khảo cổ gần đây đã cho thấy những vết tích của việc trồng lúa mỗi nơi một ít, từ Bắc chí Nam, từ miền trung đến đồng bằng, bờ biển hay xa hơn nữa, ở các đảo ngoài khơi. Ngoài các di chỉ đá mới đã được biết trong châu thổ Sông Hồng và lưu vực sông Mã, người ta còn tìm thấy trên bờ biển tỉnh Quảng Ninh, những di tích của nền văn hóa Hạ Long, có lẽ đã bắt nguồn từ các nền văn hóa hậu Bắc Sơn. Cũng trên bờ biển nhưng quá xuống phía Nam, trong phần bắc của Bình Trị Thiên, đã phát hiện di chỉ Bầu Tró mà lớp văn hóa có thể coi là một giai đoạn tiến hóa cao hơn của truyền thông Quỳnh Văn.
Cũng thuộc thời kỳ này, người ta tìm thấy trên vùng cao nguyên ở tây nam Trung Bộ những nhà ngoài trời, đặc biệt ở Gia Lai-Kon Tum và Đắc Lắc, trong đó có rìu, dao, đá mài, những cuốc bằng đá và những đồ gốm mà cách cấu tạo không có gì giống với những đồ vật được tìm thấy ở các nơi khác ở Việt Nam.
Quá về phía nam trong lưu vực sông Đồng Nai, gần 50 di chỉ đá mới đã được phát hiện trong những lớp phù sa cũ và mới của các đảo trên sông, có khi tràn cả lên bờ, mà tiêu biểu nhất là di chỉ Cầu Sắt trong huyện Xuân Lộc. Như vậy, cách đây hơn 4000 năm, ở miền này đã có một cuộc sống sôi động với những điểm cư trú tương đối quan trọng. Văn hóa Đồng Nai là một nền văn hóa của những vùng đất ở độ cao trung bình với một nền nông nghiệp khô, khác với nền nông nghiệp ở đất ngập nước trong các miền trũng của đồng bằng. Truyền thống này sẽ phát triển liên tục cho đến thời kỳ đồ sắt và có thể đã dẫn đến sự hình thành nền văn hóa Óc Eo trong các vùng đất thấp của miền Tây châu thổ sông Cửu Long.
Các công cụ bằng đá mài ngày càng được chuyên môn hóa. Cái lưỡi rìu và cuốc lim có vai hay mộng để tra cán được mài nhẵn, với những hình dạng hình học đều đặn, những kiểu và những kích thước khác nhau, và đều có cán. Con người biết cưa, khoan, và nhờ một loạt dụng cụ, có thể đốn cây, khai hoang những khoảnh đất rộng, chế tạo thuyền, những đồ vật bằng gỗ và bằng tre, cạo vỏ cây, da thú; con người có thể chế tác xương, sừng, đá để tạo ra những chiếc nhẫn, vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt.
Nghệ thuật gốm đạt trình độ cao với việc sử dụng bàn xoay và việc nung trong lò cung cấp những sản phẩm có chất lượng, có hình thức và kích thước đa dạng: nồi to và nhỏ, bình, vò phần lớn mang những trang trí chạm khắc, chủ yếu và những hình kỷ hà. Những chiếc kim bằng xương, những guồng quay và những trục suốt bằng đất nung chứng tỏ sự tồn tại của nghề dệt vải may quần áo, các nơi gần bờ biển hay gần sông, người ta tìm thấy nhiều ''viên chì'' ở lưới đánh cá, bằng đất nung, cũng có những viên bi bằng đất nung để săn bắn bằng ống xì đồng.
Sự xuất hiện nông nghiệp và chăn nuôi được khẳng định qua việc phát hiện những cái cuốc, những vò lớn bằng gốm dùng để đựng thóc, và những xương lợn và xương trâu. Hình như đã có trồng lúa rẫy trên núi và trong các ruộng nước ở đồng bằng, bởi Đông Dương vốn là một trong số những vùng trồng lúa nước sớm nhất.
Nếu ở miền núi con người tiếp tục sống trong các hang động thì ở những di chỉ mới phát hiện gần đây ở đồng bằng, người ta tìm thấy những di tích nhà bằng gỗ và tre; kích thước nhà hình như chứng minh rằng đó là những nhà tập thể. Di tích các nhà rải ra trên hàng nghìn mét vuông, một diện tích tương đương với một làng hiện nay. Số lượng không đếm xuể những dụng cụ tìm thấy ở những nơi ấy chứng tỏ sự có mặt của hàng nghìn người, họp thành một bộ lạc, gồm nhiều thị tộc. Nhà chắc là làm theo kiểu nhà sàn, như các vùng dân tộc thiểu số miền núi ngày nay. Lịch sử truyền thống kể lại rằng ''tổ tiên chúng ta xây dựng những nhà có tầng gác để tránh bị hổ tấn công''.
Sự chế tác hàng loạt các công cụ, sự xuất hiện các đồ trang sức với số lượng lớn, những đồ gốm có trang trí, chứng tỏ sự phân công lao động đã đạt một trình độ cao. Người chết được chôn cùng với những dụng cụ, đồ trang sức và đồ gốm, người ta hay gặp những mộ tập thể. Sự bình đẳng trước cái chết chứng tỏ chưa có sự phân hóa giai cấp giữa những người sống.
Những chiếc sọ tìm thấy trong các di chỉ Hòa Bình, Bắc Sơn Quỳnh Văn, Minh Cầm chỉ rõ rằng, các cư dân thuộc về nhóm australo-negroide; nhưng chẳng bao lâu xuất hiện những yếu tố mongoloide. Sự pha giống những người mongoioide đến từ phía Bắc với những người negroide ở phía Nam sinh ra nhóm australo-negroide lúc đầu sống chung với các nhóm khác, rồi rốt cuộc chiếm ưu thế. Các tộc người chung sống hiện nay trên đất nước Việt Nam đều thuộc về nhóm người mongoloide phía Nam, nhưng còn mang dấu vết ít nhiều rõ rệt của nhóm australo-negroide. Đó là sự pha giống, cho ra đời một nhóm bản xứ, tiến triển tại chỗ với nền văn hóa của riêng mình, chứ không phải là một cuộc di cư ồ ạt mang đến một nền văn hóa từ bên ngoài. Kết quả nghiên cứu các công cụ bằng đá, các đồ gốm của những di chỉ khác nhau thuộc đồ đá giữa và đá mới chứng tỏ một quá trình tiến triển liên tục nội bộ tại chỗ với sự độc đáo của riêng mình.