← Quay lại trang sách

Thời đại đồ đồng

Vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai trước C.N, đồ đồng bắt đầu xuất hiện bên cạnh đồ đá. Các di chỉ có niên đại từ đầu thời đại đồ đồng phần lớn tập trung trong miền trung du và đồng bằng sông Hồng. Điển hình nhất là di chỉ Phùng Nguyên (tỉnh Vĩnh Phú), phát hiện năm 1958, mà những vật thu thập được - công cụ lao động và đồ trang sức, đều được mài nhẵn rất tính vi, chứng tỏ tình độ cao của kỹ thuật đồ đá, đặc biệt kĩ thuật cưa, cho phép chế tạo những đồ vật có hình dạng chích xác và nhiều khi phức tạp, với một số nguyên liệu tối thiểu. Chính trên cơ sở đó, những đồ đồng đã xuất hiện, ngày càng chiếm ưu thế trong lĩnh vực các loại công cụ cũng như vũ khí. Từ nền văn hóa Phùng Nguyên này của đầu thời đại đồ đồng, ta chuyển sang giai đoạn Đồng Đậu (nửa sau nửa thiên niên kỷ thứ hai trước C.N), rồi đến giai đoạn Gò Mun (đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước C.N) để cuối cùng đạt đến một đỉnh cao khác, nền văn hóa Đông Sơn , mang tên của di dủ Đông Sơn, là di chỉ quan trọng nhất, được phát hiện năm 1924, ở tỉnh Thanh Hóa. Cho tới nay, các nhà khảo cố đã tìm thấy 98 di chỉ Đông Sơn, cung cấp một bộ sưu tập phong phú những vật bằng đồng gồm ít nhất 50 loại khác nhau, phân bố hầu như trên khắp các vùng của bắc Việt Nam, đặc biệt dọc theo lưu vực các sông Hồng, sông Mã và sông Cả.

Các vật đầu tiên bằng đồng, rồi bằng đồng thanh, xuất hiện trước tiên bên cạnh những công cụ bằng đá đẽo, những đồ gốm vẫn còn mang tính chất của thời kì đồ đá mới. Nhiều khuôn bằng sa thạch để chế tạo rìu, lưỡi giáo, dao được tìm thấy mỗi nơi một ít. Chất lượng đồng thanh và các hình dạng được cải tiến dần dần để cuối cùng đạt đến trình độ những sáng tạo đặc sắc của Đông Sơn. Sự tiến hóa này đã kéo dài nhiều thế kỉ; có dấu ấn của những đóng góp tìm ngoài vào quá trình đó, nhưng đó không phải là yếu tố quyết định như các nhà khảo học phương Tây vẫn tưởng.

Dựa trên những tư liệu không đầy đủ, lại bị chi phối ít nhiều bởi đầu óc thực dân, một số nhà khảo cổ học phương Tây thậm chí đã đưa ra ý kiến rằng nghệ thuật đồ đồng Việt Nam bắt nguồn từ châu Âu. Những phát hiện gần đây cho thấy ba sự kiện quan trọng:

Nghệ thuật đồ đồng thanh xuất hiện trên cơ sở kĩ nghệ đá mới, bản thân nghệ thuật đồng thanh cũng đã trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài đưa đến sự sáng tạo ra những hình dáng đặc sắc của văn hóa Đông Sơn; nghệ thuật đồng thanh được phố biến rộng trên lãnh thổ Việt Nam, và các di chỉ được phát hiện những năm gần đây cho thay một sự thống nhất về văn minh rất độc đáo.(3)

Những công cụ và đồ vật bằng đồng tìm thấy rất đa dạng. Ta có thể phân biệt những công cụ sản xuất: lưỡi cày, rìu, dao, cào, đục để chế tác gỗ, kim, dao để khắc, lưỡi câu; những đồ vật dùng trong nhà: bình, vò, nồi, vại, chĩnh, những vũ khí: đầu mũi tên, giáo, gươm, dao găm, mâu, áo giáp; những nhạc cụ: chuông, trống, những sản phẩm nghệ thuật: vòng đeo tay, tượng nhỏ.

Đồ vật đặc sắc nhất chắc chắn là những trống đồng, người ta đã tìm thấy được những trống đồng trong khắp cả vùng Đông Nam Á và ở Trung Quốc, nhưng mọi người đều nhất trí thừa nhận những chiếc trống đẹp nhất đều đã được phát hiện ở Việt Nam. Trống Ngọc Lũ cao 63cm, mặt trống có đường kính 79cm, có dạng hình trụ. Ở mặt trên, giữa có hình mặt trời với rất nhiều tia sáng tỏa ra, xung quanh có 16 vòng tròn đồng tâm với nhiều hình vẽ rất khác nhau. Bên cạnh những hình trang trí kỷ hà là cả một đám rước gồm những bầy hươu, chim nước với những nhân vật - người thì chơi nhạc cụ, người thì giã gạo hay đánh trống. Người mặc áo lông chim, làm cho họ có vẻ như những người chim, hẳn là mang tính chất vật tổ (totem): họ nhảy múa theo nhịp phách. Trong bức tranh có những nhà sàn nhỏ, còn ở bên dưới, trên một lỗ phình ra hình tròn, người ta thấy những thuyền đang bơi, với những chiến sĩ trang bị bằng rìu, lao và tên.

Từ 1975, nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành ở miền Nam.

Tất cả các hình vẽ và trang trí này có tính chất vừa hiện thực vừa cách điệu, chứng tỏ trình độ nghệ thuật cao của các tác giả. Phần lớn các vật bằng đồng tìm thấy đều được trang trí rất đẹp hoặc có những dạng tạo hình đặc sắc. Đó rõ ràng là một nền văn minh đặc trưng, độc đáo. Các trống đồng được sử dụng trong các lễ hội lớn, đặc biệt trong các lễ hội cầu mưa.

Các lưỡi cày bằng đồng, các lưỡi dao quắm, lưỡi liền, các hình vẽ những cây lúa trên các lưỡi rìu, hay những người đang giã gạo chứng tỏ sự phát triển của nông nghiệp. Nếu việc trồng lúa rẫy vẫn tiếp tục, thì việc trồng lúa nước đang trên đà phát triển mạnh. Việc đánh cá sông và biển được tiến hành rộng rãi. Các nghề thủ công, đồ gốm, đúc đồng, đạt đến một trình độ cao bắt đầu tách khỏi nông nghiệp; trên các đồ gốm, thấy có vết tre đan, nghề đan tre chắc chắn là đã phát triển rực rỡ.

Các hình trên mặt trống đồng vẽ những nhà sàn lớn cũng như những chiếc thuyền lớn, chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của nghề mộc.

Bằng chứng của sự trao đổi với bên ngoài, đặc biệt với các vùng khác nhau của miền Nam Trung Hoa và Inđônêxia là sự phát hiện những đồ vật khác nhau, những thứ vũ khí thời Chiến Quốc (từ thê kỷ thứ năm đến thế kỷ thứ ba trước C.N, ở Trung Quốc) trong các ngôi mộ, trong khi các trống đồng mang dấu ấn Đông Sơn được bán đi rất xa.

Cung với nền văn minh vật chất và những ngành nghệ thuật đã phát triển đến trình độ sung mãn ở miền Bắc vào cuối thiên nên kỷ thứ nhất trước C.N, người ta lại phát hiện thấy, trên một dải ven biển trải dài từ Nam Đèo Ngang (vĩ tuyến thứ 18) đến tận lưu vực sông Đồng Nai, một nền văn minh khác không kém phần rực rỡ và có những quan hệ rất nhiều mặt với nền văn hóa Đông Sơn. Đó là văn hóa Sa Huỳnh, được phát hiện lần đầu tiên tại di chỉ Sa Huỳnh, nằm trên bờ biển của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Đặc điểm chính của nền văn hóa này là sự tồn tại khắp nơi của những khu mộ táng gồm những ngôi mộ bằng chum (cao trung bình 60m) chứa những vật được táng theo là những đồ trang sức bằng đồng, đá quý hay thủy tinh, những công cụ bằng đồng hay bằng đá, những sản phẩm tạo tác, qua đó có thể nhận ra một truyền thong văn hóa đã tiến triển một cách liên tục trong nhiều nghìn năm bắt đầu từ thời đại đồ đồng cho đến đầu thời đại đồ sắt (từ thiên niên kỷ thứ tư đến thiên rên kỷ thứ nhất trước C.N).

Kết quả nghiên cứu các vật thu nhặt được cho phép giả thiết rằng truyền thống Sa Huỳnh được hình thành trên một nền tảng kinh tế mà cơ sở là việc trồng lúa và các cây lương thực khô trên một địa hình phức tạp bao gồm cả những gò và đồi cao, đồng bằng thấp trũng và những dải phù sa dọc bờ biển: Cư dân Sa Huỳnh cũng đánh bắt cá biển và duy trì quan hệ liên tục bằng đường biển với các cư dân của đồng bằng sông Hồng ở phía Bắc và các đảo ở phía Nam. Như thế là các ngôi mộ chum nằm trong khuôn khổ của một truyền thống văn hóa rộng hơn được phân bố đến tận Thượng Lào, Thái Lan, Philipin, Inđônêxia. Văn hóa Sa Huỳnh có thế đã dẫn đến sự thành lập các nhà nước Malai-Polynêdiêng cổ trên các đồng bằng ven biển Trung Việt Nam ở những thế kỷ đầu của kỷ nguyên chúng ta.