Những biến cố xã hội - Kinh tế
Sự bóc lột kinh tế của kẻ chiếm đóng đã ngăn cản nhưng không thể kìm hãm hoàn toàn sự phát triển của các lực lượng sản xuất. Các di vật tìm thấy trong những mộ được khai quật có niên đại từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ sáu sau C.N, cho thấy một sự khuếch tán dần dần các công cụ bằng sắt, dụng cụ sản xuất, vũ khí đã có từ thời trước. Những nồi bằng sắt, những chiếc đinh, những kiềng ba chân xuất hiện, trong khi các đồ đồng hiếm dần. Chỉ có trống đồng là vẫn còn tồn tại hàng thế kỷ nữa.
Vào thế kỷ thứ nhất sau C.N, việc cày ruộng với lưỡi cày bằng sắt do bò hay trâu kéo dần đần thay thế việc đốt nương làm rẫy. Đặc biệt những công trình thủy lợi, những kênh, đê điều đảm bảo chế ngự được nước; người ta sử dụng phân bón để trồng trọt thâm canh, đặc biệt việc trồng hai vụ một năm trên những miếng đất được tưới nước đầy đủ. Người ta đã biết trồng các thứ cây có củ, đặc biệt là khoai lang, mía và cây dâu cũng như các loài rau và cây ăn quả khác nhau. Việc trồng dâu nuôi tằm giữ một vị trí đặc biệt. Cũng phải kể đến việc trồng cây trầu không và cau, một số cây thuốc, tre và mây để đan rổ rá. Vậy là ngay từ những thế kỷ đầu tiên đã có một nền nông nghiệp đa dạng mà những kỹ thuật thực hành điêu luyện còn truyền đến nhiều thời kỳ sau.
Thủ công nghiệp cũng đã đạt đến một trình độ tương đối cao, người ta đã biết rèn nhiều dụng cụ bằng sắt, bằng đồng; nghề gốm vốn đã rất phát triển từ thời kỳ trước, nay được bổ sung thêm sứ tráng men. Các di tích thành quách, chùa chiền, mồ mả, cho thấy rằng gạch và ngói đã được sản xuất dồi dào. Một số gạch và ngói được phủ men.
Hai nghề thủ công phồn thịnh nhất là nghề dệt vải và đan lát. Vải vóc bằng bông, tơ lụa, rổ rá đan bằng tre, mây là những sản phẩm rất được ưa thích. Vào thế kỷ thứ ba sau C.N, người ta bắt đầu sản xuất giấy, với kỹ thuật nhập từ Trung Quốc. Từ Trung Quốc và Ấn Độ, kỹ thuật sản xuất thủy tinh cũng đã du nhập vào Việt Nam trong thời kỳ này. Để thỏa mãn nhu cầu về các đồ vật sang trọng của triều đình và các quan lại địa phương, việc chế tạo các vật bằng vàng và bằng bạc chạm khắc đã phát triển thêm một bước đưa vào kỹ thuật Trung Quốc để cải tiến chất lượng sản phẩm. Người ta đã biết đến sơn. Có thể nói nền thủ công nghiệp Việt Nam chủ yếu đã được hình thành vào thời kỳ này.
Nền kinh tế nói chung vẫn còn là tự cấp tự túc nhưng đã có một số sản phẩm được cung cấp cho các chợ nằm chủ yếu ở những trung tâm hành chính như Long Biên, nơi đã có những khu buôn bán. Giao thông trên sông và trên biển được thực hiện bằng những thuyền tam bản hay thuyền gỗ lớn, một số có nhiều tầng với hàng chục người chèo. Sông Hồng và con đường đất chạy dọc ven sông dẫn đến tận Vân Nam, từ đó đến tận Tứ Xuyên và tới được tận Trung Á như Miến Điện. Giao thông với Trung Quốc được thực hiện vừa bằng đường thủy vừa bằng đường bộ, dọc đường có nhiều trạm trung chuyển. Đất Giao Chỉ được dùng làm bến đỗ cho các thuyền xuất phát từ Giava, Miến Điện I-ran, Ấn Độ và cả từ đế quốc La Mã đi đến Trung Quốc. Ở những trung tâm quan trọng có những ngoại kiều người Khơme, Ấn Độ. Các tầu thuyền này mang đi những sản phẩm địa phương, gỗ quý, ngà voi, sản phẩm thủ công nghiệp; họ cũng buôn bán nô lệ. Nền ngoại thương này hoàn toàn nằm trong tay bọn chiếm đóng.
Chính sách của người Hán nhằm đồng hóa về văn hóa đất nước này hẳn là có thế dựa vào uy tín của nền văn minh Trung Quốc đã đạt đến một trình độ cao, nhưng vẫn vấp phải một sự chống cự ngoan cường. Ngôn ngữ Việt Nam vay mượn nhiều từ vựng của Trung Quốc, nhưng những từ vay mượn đều được Việt Nam hóa, trở thành bộ phận hợp thành của tiếng Việt; tiếng Việt giầu lên nhưng không đánh mất bản sắc của mình; văn học dân gian vẫn giữ nguyên sức sống mạnh mẽ của mình trong khi nền văn học bác học bằng chữ Hán bắt đầu phát triển. Mặc dù các nghi lễ và giáo huân của đạo Khổng, nhiều truyền thống địa phương vẫn tiếp tục tồn tại: thờ cúng các anh hùng dựng nước và yêu nước, sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động yêu nước, sản xuất và sử dụng trống đồng trong các lễ hội lớn. Những đi vật tìm thấy trong các mộ cổ của thời kỳ ấy cho thấy ảnh hưởng đậm nét hơn của văn minh Hán, các giai cấp lớp trên của người bản xứ chịu ảnh hưởng nước ngoài nhiều hơn dân chúng các cộng đồng làng xã. Tuy nhiên, vẫn thấy rõ nghệ thuật Đông Sơn, với những trang trí và những tượng nhỏ đặc trưng của nghệ thuật đó.
Cùng với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cũng du nhập vào Giao Chỉ. Phật giáo đến từ Ấn Độ bằng đường biển và từ Trung Quốc bằng đường bộ, đã có mặt từ thế kỷ thứ hai sau C.N và đến thế kỷ thứ sáu, trong thành Luy Lâu (tỉnh Hà Bắc ngày nay), người ta đã có thể đếm được 20 ngọn tháp, 500 nhà sư và 15 Kinh Phật đã được dịch. Còn Đạo giáo thì đã pha trộn với những tín ngưỡng địa phương, sinh ra những phép ma thuật, phép chữa bệnh hay phép tu khổ hạnh. Đặc điểm chính của các tôn giáo này là không dẫn đến một sự cuồng tín nào, các tôn giáo không loại trừ lẫn nhau, nhờ đó mà đã duy trì được sự đoàn kết trong lòng cộng đồng dân tộc (đối với Công giáo được du nhập sau này vào thế kỷ thứ XVII thì không thể.)
Với sự chinh phục của người Hán, xã hội Việt Nam biến đổi dần dần thành một xã hội phong kiến. Theo pháp luật, toàn bộ ruộng đất thuộc về nhà vua, tất cả các thành phần dân chúng đều là những thần dân của ông ta, phải đóng thuế, đi sưu và chịu những tạp dịch khác. Tuy nhiên các làng xã nông thôn ít nhiều vẫn giữ được quyền tự trị. Để đảm bảo quyền thống trị của họ, bọn phong kiến Hán chủ trương thành lập những ''ấp quân sự'': binh lính, tù chính trị hay thường phạm, những kẻ nghèo đói đến từ Trung Quốc được tuyển mộ cùng với những phần tử người Việt Nam mất gốc, những nông dân phá sản, để khai phá đất đai dưới sự chỉ huy của những sĩ quan hay viên chức. Đồng thời hình thành những ấp trại riêng thuộc quyền sở hữu của những viên chức người Trung Quốc ở lại hẳn không về nước, hay những phần tử người bản xứ quy phục bọn thông trị người Hán, xuất thân từ những tầng lớp cai trị cũ hay những hương chức của các cộng đồng làng xã. Sau thế kỉ thứ hai sau C.N, một số người Việt Nam có học có thế giữ những chức quan và nhờ đó tạo cho mình những đất tư. Trong các ấp quân sự và các đất tư có nô lệ làm việc. Trong các ngôi mộ thuộc thời kì này, người ta tìm thấy những mô hình bằng đất nung của những ấp trại này với hàng rào có tháp canh, nhà kho thóc, chuồng trâu bò... Với thời gian, những viên chức người Trung Quốc và con cháu họ cư trú trong nước được ''Việt Nam hóa''; cùng với các viên chức và chủ đất bản xứ cuối cùng đã hình thành một giai cấp thống trị bản xứ mang tính chất phong kiến.
Giai cấp phong kiên này, được hình thành trong một nước bị ách đô hộ hà khắc của đế quốc Hán, trong những điều kiện nhất định, đã chống lại triều đình và đứng về phe nhân dân. Những cơn rối loạn trong nước ở Trung Quốc, thường do những cuộc nổi dậy của nông dân gây ra đã tạo điều kiện thuận lợi cho một cuộc đấu tranh công khai chống sự đô hộ của đế quốc Trung Hoa, để tách mình ra khỏi đế quốc này, lúc đầu là trong một thời gian ngắn, và sau đó là vĩnh viễn.