← Quay lại trang sách

Các cuộc khỏi nghĩa và đấu tranh giành độc lập

Cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân chống sự đô hộ của đế quốc Trung Hoa diễn ra liên miên trong nhiều thế kỉ, thỉnh thoảng lại bùng nổ thành những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Cuộc khởi nghĩa thứ nhất, không phải tình về triều đại mà về tầm quan trọng, là cuộc khởi nghĩa của hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị thuộc một gia đình lạc tướng ở huyện Mê Linh (tây bắc Hà Nội ngày nay). Từ năm 40 đến năm 43 sau C.N, hai bà đã phát động một phong trào rộng lớn trong toàn quận Giao Chỉ, phong trào ở nhiều nơi mang đậm dấu ấn vai trò chỉ huy của người phụ nữ. Trưng Trắc được tôn làm “tướng”, bộ máy cai trị của đế quốc Trung Hoa bị đập tan. Hoàng đế nhà Hán lúc bấy giờ đang ở đỉnh cao quyền lực đã phải cử viên tướng giỏi nhất của mình là Mã Viện (Phục Ba tướng quân) sang Giao Chỉ. Vào cuối năm 43, cuộc khởi nghĩa bị đè bẹp, nhưng đã để lại một kỉ niệm không thể xóa nhòa trong lịch sử đất nước.

Tuy nhiên, sử biên nên của Trung Quốc liên tục than phiền rằng: dân Giao Chỉ, dựa vào thế nước ở xa và hiểm trở, vẫn cứ thích nổi loạn. Phong trào khởi nghĩa từ châu thổ sông Hồng chuyển xuống phía nam; những đồn luỹ, đất đai của bọn quan lại Trung Quốc bị tấn công. Đến lượt một người phụ nữ khác, Bà Triệu, năm 248, phát động trong tỉnh Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay) một cuộc khởi nghĩa lớn chống ách đô hộ của nước ngoài. Bà nói: '' Ta muốn cưỡi lưng gió dữ, chém cá kình ở biển Đông, đuổi quân xâm lược, lấy lại đất nước, phá tan gông xiềng nô lệ chứ không muốn khom lưng làm hầu thiếp cho người ta ''. Bà cưỡi voi dẫn đầu quân lính chiến đấu. Nhưng bà đã không thế chống cự lâu dài với các đội quân của hoàng đế Trung Quốc.

Nhiều cuộc khởi nghĩa khác đã đánh dấu các thế kỉ thứ tư và thứ năm; đặc biệt phải kể đến cuộc khởi nghĩa năm 412, trong đó những nông dân Trung Quốc nổi loạn bị đuổi khỏi nước này đã liên kết với những người yêu nước Việt Nam. Thế kỉ thứ sáu được đánh dấu bằng cộc khởi nghĩa lớn ca Lý Bí, một thân hào của đất Long Hưng (Thái Bình ngày nay), ông phát động khởi nghĩa năm 542, quét sạch bộ máy cai trị Trung Hoa, phá tan cuộc phản công của quân Trung Quốc năm 543 và cuộc tấn công của quân Chiêm Thành ở phía nam. Năm 544, Lý Bí tự xưng vua của vương quốc Vạn Xuân, thiết lập bộ máy hành chính quốc gia. Nhưng ông bị quân đội của triều đình Trung Quốc đánh bại trong những năm 545-546 và mất năm 548, trao lại quyền chỉ huy cho một trong những bộ tướng của mình là Triệu Quang Phục. Ông này cho quân đóng ở Đầm Dạ Trạch (tỉnh Hải Hưng ngày nay -1984) để đánh du kích và khi Lý Bí chết thì Triệu Quang Phục xưng vua. Năm 550, lợi dụng tình hình Trung Quốc đang loạn lạc, ông đánh chiếm lại được một phần lớn lãnh thổ quốc gia, tuy nhiên các thủ lĩnh phong kiến của Việt Nam đã không thỏa thuận được với nhau, kình chống lẫn nhau khiến cho hai thập kỉ cuối cùng của thế kỉ thứ sáu bị dìm trong u ám, nhà Tùy bên Trung Quốc đã nhân cơ hội chiêm lại đất nước này năm 603.

Nhà Tùy dời thủ đô hành chính đến Tống Bình (Hà Nội ngày nay). Năm 618, nhà Đường lên ngôi ở Trung Quốc, kinh tế và văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh chưa từng thấy, phạm vi bành trướng của đế quốc Trung Hoa mở rộng hơn bao giờ hết. Xứ Giao Châu (Việt Nam) đối với nhà Đường không chỉ là một thuộc địa để khai thác mà còn là một căn cứ xuất phát để tiến xuống Đông Nam Á. Năm 679, nhà Đường lập ''An Nam đô hộ phủ'' (Phương Nam được bình định). Từ An Nam xuất hiện từ đấy đế chỉ đất nước này. Nhà Đường mở rộng mạng lưới hành chính của chúng đến tận các làng và miền núi, triều cống hàng năm cho thiên triều, thuế má và lao dịch ngày càng nặng. Tuy nhiên nông nghiệp và nhất là thủ công nghiệp vẫn không ngừng phát triển, cũng như giao thông đường bộ, đường sông và đường biển. Ba học thuyết: đạo Khổng, đạo Lão và nhất là đạo Phật được truyền bá rộng rãi nhưng vẫn không loại bỏ các tín ngưỡng địa phương. Việc thờ cúng các thần địa phương - thường là những người yêu nước hay người sáng lập ra làng - vẫn rất phổ biến, và để tìm cách bóp nghẹt tình cảm dân tộc luôn luôn sống động, bọn thống trị Trung Quốc nhờ đến thuật địa lí để ''triệt long mạch'' chảy trong đất Việt Nam. Nhân dân lập tức ăn miếng trả miếng. Trong xã hội ngày càng có nhiều người, bằng con đường học vấn hay bằng của cải, làm đến những chức quan cao, càng có nhiều người giành được những cơ ngơi ruộng đất ít nhiều bề thế.

Dưới thời Đường, Việt Nam đã nhiều lần phải dịu những cuộc xâm lược đến từ phương Nam. Từ các nước Champa hay Giava, Malaixia hay từ nước Nam Chiếu (tỉnh Vân Nam ngày nay); năm 863 quân Nam Chiếu đến được Tống Bình và kinh đô này đã bị tiêu hủy. Năm 865, triều đình nhà Đường cử tướng Cao Biền đánh quân Nam Chiếu. Sau khi đập tan quân Nam Chiếu, Cao Biền trở thành thứ sử, ra sức đàn áp, nhưng phong trào dân tộc vẫn không ngừng phát triển từ khi nhà Đường đặt ách đô hộ.