← Quay lại trang sách

Sự phát triển kinh tế dưới các triều Lý - Trần

Theo luật pháp, đất đai thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Tuy nhiên nhà vua chỉ khai thác một phần, phần còn lại được phân làm thái ấp và lãnh địa riêng cho các thành viên của hoàng tộc và các đại thần, và thu thuế những ruộng đất thuộc các làng xã. Như vậy, chúng ta có một chế độ ruộng đất với nhiều thành phần:

- Ruộng đất Nhà nước;

- Đất phong và lãnh địa;

- Ruộng đất công các làng xã;

- Ruộng đất của tư nhân.

Ruộng đất chia cho quý tộc và các đại thần có hai loại. Có những thái ấp mà kẻ được hưởng sở hữu cả đất lẫn người; nông dân bị lệ thuộc trực tiếp vào lãnh chúa địa phương, không phải nộp thuế và làm lao dịch cho Nhà nước. Trong những lãnh địa lớn, nông dân vừa phải nộp tô và những khoản đóng góp khác cho người chủ sở hữu được phong đất, vừa phải đảm đương những nghĩa vụ đối với nhà nước, vẫn là những thần dân trực tiếp của nhà vua. Lý Thường Kiệt chẳng hạn đã được nhận phần của mình là 4000 hộ nông dân, nhưng lãnh địa của ông còn gồm có 10.000 hộ nông dân khác nữa. Dù là thái ấp hay lãnh địa, người được phong đất chỉ có quyền chấp hữu chứ không có quyền sở hữu, quyền này thuộc về nhà vua. Sau khi người này chết đi, nhà vua có thể giao đất cho những người thừa kế hoặc lấy lại đất.

Các thái ấp và lãnh địa ngày càng nhiều dưới nhà Trần, các nhà quý tộc và đại thần ra sức khai hoang những đất mới để chiếm cứ; một số sử dụng quyền lực của họ để chiếm lấy đất công của các xã hay đất của tư nhân. Trong các thái ấp và lãnh địa này, nông dân thực sự là những nông nô trong khi các gia đình lãnh chúa nuôi nhiều gia nô. Nhà Lý trước đó đã cấm việc buôn bán thanh rên làm nô lệ, nhưng nhà Trần đã thu hồi lệnh này.

Nô lệ gồm có những tội phạm, những người không trả được nợ và các tù binh chiến tranh. Trong thời kỳ đói kém, có những bố mẹ bán con cái làm nô lệ. Một số lãnh chúa có hàng nghìn nông nô và nô lệ, những người này không có quyền có của cải riêng, cũng không được ra làm việc công. Đặc biệt dưới thời nhà Trần có những quí tộc có lực lượng vũ trang riêng.

Các tu viện Phật giáo cũng là nhưng lãnh địa lớn có nông nô và nô lệ.

Sự giải phóng những nông nô và nô lệ này sẽ là phong trào xã hội lớn cuối cùng làm lay chuyển chế độ.

Tuy nhiên, phần lớn đất đai thuộc về các làng xã phải nộp tô và đóng thuế cho chính quyền nhà vua. Dân của các làng xã phải đều kỳ đóng góp lao dịch cho những công trình lớn như làm đường, đắp đê, đào kênh mương và đi lính. Đất công các làng xã lâu lâu lại được chia lại một lần cho các thành viên của làng xã. Việc chia lại được thực hiện dưới sự chỉ đạo của các hương chức, tất nhiên là theo cách có lợi cho họ.

Tuy nhiên sự liếm hữu tư nhân đất đai bắt đầu trở thành phổ biến dưới triều Lý và không ngừng tăng nên; ngay từ thế kỷ thứ XI, nhà Lý đã buộc phải xây dựng pháp chế cho việc mua bán đất. Một giai cấp nông dân-chủ đất xuất hiện như vậy đối diện với những chúa đất làm chủ những lãnh địa lớn.

Các vua Lý và Trần rất coi trọng nông nghiệp. Hàng năm, tiếp tục truyền thống bắt đầu từ Lê Hoàn, vào đầu năm, nhà vua đi cày một cách tượng trưng một mảnh ruộng, sau một nghi lễ cúng Thần Nông. Năm 1038, một viên quan khuyên vua Lý Thái Tông không nên tự hạ mình xuống cày ruộng như thế, đã được vua trả lời: ''Nếu ta không tự mình cày đế tế trời đất thì làm sao ta có thể làm gương cho toàn dân?''

Luật pháp trừng phạt nghiêm khắc những người bắt trộm hoặc giết trâu.

Các đê điều được quan tâm đặc biệt, được giao cho những viên quan đặc biệt chịu trách nhiệm trông coi. Sử biên niên chép lại việc xây dựng nhiều đê điều và công trình trị thủy khác: Đê Cơ Xá năm 1108, kênh Đầu Nai năm 1029, sông Lâm năm 1050, sông Lãnh Kinh năm 1089. Nhà Trần nhiều lần cho sửa lại đê điều và nạo vét kênh mương. Đặc biệt, năm 1382, họ cho đào nhiều kênh ở Thanh Hóa và Nghệ An, và năm 1390, kênh Thiên Đức mà ngày nay là sông Đuống. Sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã và sông Chu được kẹp chặt giữa những con đê và mỗi năm sau mùa gặt, các quan có trách nhiệm lại thám sát và chỉ đạo các công trình duy tu và sửa chữa. Tháng 8-1315, nước lên cao nguy hiểm, vua Trần Minh Tông thân hành đến chỉ đạo công việc hộ đê. Một viên quan muốn can ngăn nhà vua tâu rằng: ''Nghĩa vụ của nhà vua là thực hành những đức lớn chứ không phải là lo đến những việc nhỏ''. Một vị đại thần liền đáp: ''Khi lũ lớn hay đại hạn đe dọa đất nước thì nhà vua phải trực tiếp lo toan. Đó là cách tốt nhất để thực hành đức lớn''.

Người ta cũng quai những con đê lấn biển để cho phù sa của các sông bồi dần.

Quyền hành chính được tập trung, hòa bình trong nước được giữ vững và độc lập dân tộc được bảo vệ, nông nghiệp, thành phần cơ bản của nền kinh tế, đã có thể phát triển thuận lợi. Lịch sử chỉ ghi lại ít vụ đói kém nghiêm trọng dưới triều nhà Lý và nhà Trần. Có những lần nhà vua hạ lệnh miễn thuế để khuyên khích nông dân.

Thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh. Nghề dệt vải bông, tơ lụa, gấm vóc đạt đến trình độ cao. Các loại gấm nhiều màu được xuất khẩu hay cống nạp cho triều đình hoàng đế Trung Quác. Việc khai thác các mỏ vàng, bạc, thiếc, chì phát triển, tạo ra nhiều nghề như nghề kim hoàn. Nhà nước đúc tiền dưới dạng tiền chinh bằng đồng, xây dựng những xưởng chế tạo vũ khí đồ thờ cúng và lễ phục cho triều đình. Nghề đúc đồng, đặc biệt đúc chuông, phát triển mạnh. Nghề gốm, với men cải tiến, cũng phát triển nhanh chóng. Gạch, ngói, các tượng lớn nhỏ bằng đất đời Lý đều nổi tiếng.

Nghề in bằng các bản gỗ khắc góp phần phát triển giáo dục và phố biến các kinh Phật.

Sự phát triển các nghề thủ công làm cho các vua Trần phải mở rộng kinh thành và chia các khu dân cư trong thành phố thành những khu chuyên theo từng nghề. Kinh thành ở thế kỷ thứ XIII gồm có 61 khu, mỗi khu phân cho một phường nghề.

Kỹ nghệ đóng thuyền phát triển, có thể đóng được những thuyền buồm lớn có đến một trăm người chèo. Kinh thành Thăng Long trở thành trung tâm thương mại lớn của cả nước trong khi ở nhiều vùng hình thành những chợ. Một sứ thần Mông Cổ đến vào thế kỷ thứ XIII, kể lại rằng các chợ nông thôn họp một tháng hai lần với ''đầy ắp hàng hóa'', và trên các đường cái, cứ năm dặm lại thấy một cái chợ. Dọc các đường cái lớn, nhà chức trách cho đặt những trạm để người đi đường có thể nghỉ chân.

Trao đổi phát triển giữa đồng bằng và miền núi, đồng bằng đổi muối, các công cụ bằng sắt lấy lâm sản. Việc buôn bán với Trung Quốc được tiến hành trên những địa điểm thương mại đặc biệt đặt ở các đồn biên phòng hay các cảng biển. Người Trung Quốc đổi vải vóc lấy các hương liệu, ngà voi, muối hay những khoáng sản khác. Việc buôn bán tơ lụa được Nhà nước quy định một cách nghiêm khắc và nhà nước đôi khi cũng tiến hành những hoạt động buôn bán. Các tầu thuyền Giava, Xiêm, cũng cập bên cảng Vân Đồn để ăn hàng Việt Nam.

Năm 1280, vua Trần Nhân Tông qui định một đơn vị đo chiều dài thống nhất để đo gỗ và vải vóc.

Vậy là kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phát triển, tuy nhiên các thương nhân không mấy được coi trọng, và nền ngoại thương vẫn bị Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.