← Quay lại trang sách

Cuộc kháng chiến vẻ vang chống quân Mông Cổ

Đầu thế kỷ thứ XIII, Thành Cát Tư Hãn, sau khi đã thống nhất Mông Cổ, bắt đầu cuộc chinh phục Trung Quốc. Năm 1253, Hốt Tất Liệt chinh phục vương quốc Nam Chiếu (Vân Nam ngày nay), và như vậy tiến sát đến biên giới Việt Nam. Quân Mông Cổ đòi nhà Trần cho mượn đường qua Đại Việt để đánh tập hậu quân Tống từ phía nam (năm 1257). Vua Trần từ chối. Một đội quân Mông Cố liền xâm lược Đại Việt, phá vỡ các tuyến phòng ngự, vào sâu đến tận kinh thành Thăng Long, đột phá nhà cửa và tàn sát nhân dân. Vua Trần rời khỏi kinh thành và nhân dân cũng vậy. Quân Mông Cổ không tìm được lương thực tại chỗ, và chịu không nổi khí hậu nhiệt đới. Một cuộc phản công của quân Đại Việt đánh bật chúng ra khỏi kinh thành. Quân địch trên đường rút chạy còn bị chặn đánh bởi những du kích địa phương thuộc một nhóm dân tộc thiểu số vùng Phú Thọ. Đó là thất bại lần thứ nhất của quân Mông Cổ.

Tuy nhiên, người Mông Cổ, sau khi làm chủ được toàn bộ Trung Quốc, lại vẫn liên tiếp đưa ra hết yêu sách này đến yêu sách khác với Đại Việt; mặc dù nhà Trần nhân nhượng, triều đình Mông Cổ vẫn khăng khăng không chịu, mơ tưởng cùng một lúc chinh phục cả Đại Việt lẫn Chiêm Thành. Quan hệ giữa hai nước luôn luôn căng thẳng, các sứ bộ Mông Cổ xử sự hách dịch đối với triều đình nhà Trần, vua tôi nhà Trần không ngồi yên. Họ tích cực chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước.

Năm 1281, Trần Di Ái, một thành viên hoàng tộc, được cử đi sứ sang Trung Quốc; triều đình Mông Cổ thuyết phục y chịu thụ phong của Mông Cổ để làm vua Đại Việt và cho một nghìn quân hộ tống y về nước để lên ngôi. Đội quân hộ tống bị đánh bại, Trần Di Ái bị bắt.

Trong khi đó, quân Mông Cổ đã chuẩn bị xong đâu đấy kế hoạch tấn công Chiêm Thành bằng đường biển. Cuối năm 1282, tướng Mông Cổ là Toa Đô đố bộ lên đất Chiêm Thành, rồi chiếm kinh đô nước này năm 1283, nhưng người Chăm vẫn tiếp tục chống cự, tiêu diệt rất nhiều quân Mông Cổ. Năm 1284, Toa Đô bắt đầu cuộc rút lui và điều quân lên đóng ở phần phía bắc của đất Chiêm Thành, gần biên giới Đại Việt để chờ xem động tĩnh.

Lúc đó, Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị xong một đội quân viễn chinh hùng hậu dưới sự chỉ huy của con trai y là Thoát Hoan nhằm chinh phục cả Đại Việt và Chiêm Thành: 500.000 kỵ binh và bộ binh sẽ tràn xuống phương nam để mở rộng biên giới của đế quốc Mông Cổ xuống tận cực nam rủa bán đảo Đông Dương.

Vua Trần Nhân Tông đã nắm vững tình hình, ngay từ 1282, ông cho triệu tất cả các hoàng thân và đại thần để hỏi về đường lối nên theo, và tất cả đều trả lời là phải chiến đấu. Hoàng thân Trần Quốc Toản mới 16 tuổi, tuyển một đội quân 1.000 người để ra trận. Cuối 1283, tất cả hoàng thân và đại thần được lệnh tập trung các lực lượng vũ trang của họ dưới sự chỉ huy tối cao của Trần Hưng Đạo.

Một đại hội gồm tất cả bô lão của các làng họp ở Diên Hồng. Câu hỏi đặt ra cho họ là: Nên hàng hay nên đánh? Cả hội nghị vang lên ''Đánh''.

Mông Cổ đòi đế quân đội của chúng đi qua Đại Việt để tiến đánh Chiêm Thành. Cuối 1284, chúng đã vượt qua biên giới.

Các lực lượng Đại Việt, với tổng số 200.000 người không cản nổi chúng trong những trận giáp chiên đầu hên. Trần Hưng Đạo liền cho rút khỏi kinh thành, nhà vua hỏi ông: ''Quân địch mạnh đến nỗi trẫm sợ nếu chiến tranh kéo dài thì e dân sẽ phải dịu sự tàn phá ghê gớm. Nên chăng ta hàng để cứu dân?'' Vị tổng tư lệnh trả lời: “Thần rất hiểu lòng nhân ái của Bệ hạ, nhưng còn tôn miếu xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy cho chặt đầu thần trước đã!” Vua yên tâm. Trần Hưng Đạo soạn cho các tướng sĩ của mình quyển Binh thư yếu lược, ra lời hịch nổi tiếng kêu gọi tướng sỹ, làm cho họ nức lòng, thích lên cánh tay hai chữ Sát Thát (giết quân Mông Cổ). Trong các làng xóm dán cáo thị, ra lệnh cho dân chúng phải lòng lại quân xâm lược bằng mọi cách, nếu cần thì trốn vào rừng núi tiếp tục cuộc chiến đấu.

Đầu năm 1285, quân Mông Cổ hạ một loạt vị trí, vượt sông Hồng tiến vào kinh đô. Thăng Long bị cướp phá, dân cư bị tàn sát. Tướng Trần Bình Trọng bị bắt; đáp lại những lời dụ dỗ đầu hàng, ông trả lời: ''Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc!'' Ông bị chúng giết hại. Tướng Mông Cổ Toa Đô xuất phát từ Chiêm Thành, dẫn quân tiến lên phía bắc để hợp quân với Ô Mã Nhi; một đội quân Đại Việt do Trần Quang Khải chỉ huy có nhiệm vụ chặn đội quân của Toa Đô ở Nghệ An đã bị đẩy lùi. Chiến thuyền của Mông Cổ tự do xuôi ngược trên sông Hồng. Có những vương hầu phản bội như Lê Tắc và Trần Ích Tắc. Triều đình nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa. Quân Mông Cổ làm chủ đồng bằng sông Hồng, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, nghĩa là bộ phận quan trọng nhất của đất nước.

Tuy nhiên, để chiêm đất, quân Mông Cổ buộc phải phân tán lực lượng trong vô số những đồn lũy dễ bị đánh, cũng như những toán quân phải thường xuyên tuần tiễu để giữ cho giao thông thông suốt. Từ những tháng đầu của năm 1285, ở trung du, các thủ lĩnh địa phương đã giáng cho quân Mông Cổ những đòn tổn thất, còn ở đồng bằng, dân chúng áp dụng danh sách vườn không nhà trống khiến quân địch lâm vào tình trạng khó khăn vì không kiếm được lương thực. Trong những điều kiện như vậy, quyết tâm của bộ tư lệnh nhà Trần đã có thể triệt để phát huy hiệu quả.

Ở Nghệ An, quân của Toa Đô buôn bị du kích quấy rối, tìm cách hợp nhất với đạo quân Mông Cổ đóng ở phía bắc bằng cách ngược sông Hồng. Nhà Trần điều 50.000 quân chặn đường chúng, quân Mông Cổ bị thua một trận lớn ở cửa Hàm Tử (tỉnh Hưng Yên). Trên đà ấy, Trần Hưng Đạo thúc quân tiến về kinh đô Chương Dương, một tiền đồn cách Hà Nội 20 km về phía nam bị đánh bật. Cũng trong thời gian đó, vua Trần cùng quân đội rời nơi lánh nạn ở Thanh Hóa để tiến về kinh đô, trong khi dân chúng nổi dậy quấy rối hậu phương của địch. Quân Mông Cổ rút khỏi Thăng Long lên đóng ở phía bắc sông Hồng.

Đại quân của Đại Việt xông lên tấn công quân của Toa Đô và đè bẹp chúng ở Tây Kết tháng 7-1285; Toa Đô bị giết, 50.000 quân địch bị bắt.

Sau khi bố trí lực lượng trên đường rút lui của địch về Trung Quốc, Trần Hưng Đạo tiến công trực diện vào quân đội Mông Cổ. Chúng rút lui và rơi vào một loạt ổ phục kích chết người. Thoát Hoan, tổng tư lệnh Mông Cổ, trốn thoát bằng cách chui vào một cái ống đồng. Tháng 8-1285, toàn bộ đất nước được giải phóng, đội quân Mông Cổ gồm nửa triệu người đã bị đánh bại.

Hốt Tất Liệt phải từ bỏ kế hoạch xâm lược Nhật Bản để chuẩn bị một đội quân viễn chinh trả thù Đại Việt. Các vương hầu nhà Trần tìm cách tuyển thêm quân. Trần Hưng Đạo trả lời họ: ''Quân cốt tinh, không cốt nhiều''. Thấy vua lo lắng, ông nói: ''Quân đội chúng ta nay thiện chiến hơn. Quân địch đã bị thua, không còn tinh thần. Năm nay đánh giặc dễ hơn''.

Cuối năm 1287, Thoát Hoan lại vượt biên giới với 300.000 quân và một đạo thủy quân 500 chiến thuyền tiến về các bờ biển Đại Việt Vua Trần lại rút khỏi kinh đô. Tướng Mông Cổ là Ô Mã Nhi sai nhắn tin cho vua Trần: ''Nếu mi chạy lên trời, ta sẽ theo lên trời, ta sẽ theo mi đến tận đáy biển, đến tận rừng sâu nếu cần!''. Nhưng quân Mông Cổ tha hồ chiếm cứ đất đai, nhân dân làm vườn không nhà trống. Biên niên sử nhà Nguyên (triều đại Mông Cổ) viết: ''Nhân dân Giao Chỉ (Đại Việt) cất giấu thóc gạo và trốn đi''. Quân Mông Cổ không có lương thực. Thoát Hoan ra lệnh đốt cháy kinh thành rồi rút lên phía bắc sông Hồng. Trong tất cả các cuộc di chuyển ấy, quân Mông Cổ luôn luôn bị quân và dân nhà Trần tiến công quấy rối.

Ở Vân Đồn, trên bờ biển (gần Hòn Gai ngày nay) hướng Trần Khánh Dư theo dõi các đoàn thuyền vận tải lương thực của quân Mông Cổ. Ông bất ngờ chặn đánh và tiêu diệt hạm đội Mông Cổ, chiếm lấy quân lương. Tin này làm quân địch hoang mang cực độ. Quân Mông Cổ bắt đầu cướp bóc dân chúng và bị dân chúng chống lại kịch liệt. Các tướng nói với Thoát Hoan: ''Chúng ta không còn thành để giữ, không còn lương đế ăn, các nơi hiểm yếu đã bị mất, mùa hạ sắp đến, mang theo bệnh tật. Tốt nhất là ta nên rút''. Quân Mông Cổ rút bằng đường bộ về phía Lạng Sơn và xuôi sông Bạch Đằng để ra biển.

Trần Hưng Đạo lại dùng mẹo cũ của Ngô Quyền: ông cho đóng cọc bịt sắt ở cửa sông rồi cử tướng Phạm Ngũ Lão lên đóng ở cửa ải Lạng Sơn. Còn bản thân ông nắm đại quân chuyển sang tiến công qua sông Hóa (tỉnh Kiên An). Khi qua sông, trước ba quân ông thề: ''Nếu không đánh được quân Mông Cổ thì sẽ không trở về qua lại sông này!''.

Hạm đội Mông Cổ xuôi sông Bạch Đằng lúc nước triều lên bị một đội thuyền nhỏ của Đại Việt khiêu chiến và giả vờ thua, rút chạy. Tướng Ô Mã Nhi đuổi theo thì quân của Trần Hưng Đạo xuất hiện. Các chiến thuyền Mông Cổ lùi lại, nhưng thủy triều bắt đầu rứt và các thuyền của Mông Cổ bị vỡ ra vì va phải cọc bịt sắt. Ô Mã Nhi bị bắt, 100 thuyền bị phá hủy, 400 chiếc khác bị quân ta thu dụng (3-4-1288).

Được tin, Thoát Hoan hốt hoảng vội vã rút lui và trên đường về bị mất một phần lớn quân đội. Đó là thất bại lần thứ ba của Mông Cổ. Vua Trần khôn ngoan, ngay từ cuối năm 1288, đã cử một sứ bộ sang Bắc Kinh đề nghị hòa và cống nạp triều đình Mông Cổ. Năm 1289, ông trả lại cho Mông Cổ các tướng tá bị bắt làm tù binh. Triều đình Bắc Kinh muốn yêu sách nhiều hơn là sự thần phục hình thức ấy, nhưng các vua Trần không chịu. Năm 1293, Mông Cổ lại chuẩn bị một cuộc viễn chinh mới nhưng Hốt Tất Liệt chết năm 1294, và con trai ông ta là Ti Mua lên nối ngôi, hủy bỏ dự định và nối những quan hệ hữu nghị với Đại Việt, nước này tiếp tục triều cống hàng năm cho triều đình Mông Cổ.

Nguyên nhân chủ yếu của cuộc chiến thắng quân Mông Cổ và sự vững chắc của chế độ xã hội kinh tế đã được xây dựng dưới các triều đại Lý Trần, và sự đúng đắn về đường lối quân sự của bộ chỉ huy nhà Trần. Chế độ quân chủ và giới quý tộc đã biết phát triển nông nghiệp, thiết lập chế độ nông-binh, làm cho trong thời kỳ chiến tranh toàn dân có thể đoàn kết xung quanh các lãnh tụ của mình và mỗi người trở thành một chiến sĩ. Cả các thủ lĩnh những dân tộc thiểu số miền núi cũng đóng góp vào thắng lợi. Sự đoàn kết dân tộc trở thành một sức mạnh. Tinh thần dân tộc được rèn đúc qua nhiều thế kỷ đấu tranh chống bọn chiếm đóng ngoại bang được củng cố qua việc thiết lập một chính quyền trung ương tập quyền ổn định, đã mạnh lên rất nhiều. Tổng tư lệnh Trần Hưng Đạo luôn biết dựa vào dân để chiến đấu chống một kẻ thù mạnh hơn mình về quân số và vũ khí, áp dụng một chiến lược và những chiến thuật thích hợp. Ông biết bỏ những thành phố, kể cả thủ đô khi cần, tránh đối đầu trực tiếp với kẻ thù khi nó đang mạnh, sử dụng chiến tranh du kích để quấy phá kẻ thù, cương quyết chuyển sang tấn công khi hoàn cảnh thuận lợi. Quyết tâm sắt đá của bộ chỉ huy làm nức lòng quân sĩ.

Ít lâu, trước khi Trần Hưng Đạo mất năm 1300, vua Trần Anh Tông đến thăm và hỏi vị tổng tư lệnh: ''Nếu phương Bắc lại xâm lược một lần nữa thì làm thế nào?''. Hưng Đạo trả lời: ''Kẻ thù ỷ vào số đông: nghệ thuật của chúng ta là lấy ngắn đánh dài. Khi kẻ thù ào ào kéo đến như lửa như gió thì thắng nó dễ thôi. Nhưng nếu nó biết kiên nhẫn như tằm ăn lá dâu, nếu nó tiến hành không vội vàng, không tước đoạt dân chúng, không tìm kiếm một thắng lợi nhanh, thì lúc đó ta phải chọn những tướng giỏi, áp dụng một chiến lược thích hợp như đánh cờ. Điều quan trọng là phải đối xử với dân một cách nhân đạo để đảm bảo sâu gốc bền rễ''. Cho đến ngày nay, nhân dân vẫn thờ cúng Trần Hưng Đạo ở đền Kiếp Bạc.