← Quay lại trang sách

Sự ra đời của văn học dân tộc

Nước nhà độc lập, một nền văn học dân tộc hình thành và dần dần phát triển. Văn học dân gian truyền miệng bằng ngôn ngữ dân tộc tiếp tục ngày thêm phong phú. Tuy nhiên khó mà xác định được năm tháng ra đời của những tác phẩm, những bài hát, những chuyện kể được truyền từ đời này sang đời khác. Cùng với thế kỷ thứ X, xuất hiện nền văn học bác học, viết bằng tiếng Hán cổ điển, ngôn ngữ chung của khu vực Đông Á sử dụng lối chữ tượng hình của Trung Quốc. Nhưng dần dần người ta cảm thấy cần phải có một thứ chữ để viết bằng tiếng Việt Nam: chữ Nôm phát sinh từ cách viết chữ Hán đã được tạo ra. Người ta không nắm chắc lối chữ này đã được hoàn thiện vào lúc nào, nhưng những tác phẩm văn Nôm đầu tiên đã xuất hiện ở thế kỷ XIV.

Những tác phẩm đầu tiên viết bằng chữ Hán cổ điển thường là những văn bản về đạo Phật hoặc giảng giải về học thuyết hoặc diễn đạt những tình cảm của các nhà sư trước các sự kiện. Thí dụ bài thơ của sư Vạn Hạnh mất năm 1018:

Người đời như bóng chớp, có rồi lại không

Như cây cối, mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo

Mặc cho vận đời, dù thịnh hay suy, đừng sợ hãi

Vì thịnh suy cũng mong manh như giọt sương đầu ngọn cỏ

Sư Viên Chiếu (998 - 1090) là một người làm thơ hay, như hai câu thơ dưới đây:

Xuyên rặng trúc, còi theo gió tới

Vượt bờ tường, núi đội trăng sang

Vương quốc được củng cố, nguồn cảm hứng Phật giáo về tính chất phù du của tạo vật nhường chỗ cho sự suy tưởng về thiên nhiên, thế rồi cùng với những cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc chủ nghĩa yêu nước ùa vào các trang thơ. Cũng những con người ấy khi thời bình thì ngợi ca vẻ đẹp của đất nước, đến những giờ phút nguy nan lại cầm bút để cố vũ cuộc chiến đấu của dân tộc.

Vua Trần Nhân Tông, người đã chiến thắng quân Mông Cổ đã để lại cho hậu thế bức tranh vẽ cảnh hoàng hôn dưới đây:

Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không

Theo lời kèn mục trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng

(Bản dịch của Ngô Tất Tố- Hợp tuyển thơ văn Việt Nam )

Vị tổng tư lệnh của nhà vua là Trần Hưng Đạo, khi quân Mông Cổ kéo vào đã thảo bài Hịch tướng sĩ là một trong số những viên ngọc đẹp nhất của nền văn học dân tộc:

“ Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ giận không được phanh thây xé xác, ăn gan uống máu quân thù. Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thậm chí quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết nhục, nghe nhạc thái thường đãi yến ngụy sứ mà không biết căm, hoặc lấy việc chọi gà làm vui, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú ruộng vườn, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Cổ tràn sang thì cựa gà trống không thể đạp thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh, ruộng vườn giàu không thể chuộc tấm thân ngàn vàng, vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc, tiền của dẫu nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, chủ tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào? Chẳng những gia quyến ta bị đuổi mà vợ con các người cũng bị bắt đi, chẳng những con cháu ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng đó khôn rửa, tiếng xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không? ”

Trong số những tác giả đã để lại những tác phẩm văn học có Mạc Đĩnh Chi (mất năm 1346), Trương Hán Siêu (mất năm 1354), Chu Văn An (mất năm 1370), Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370), Phạm Sư Mạnh (mất năm 1345) đã cầm đầu một sứ bộ Trung Quốc, Lê Quát, Trương Hán Siêu, trong một bài thơ nổi tiếng ca ngợi hai trận chiến thắng năm 939 và năm 1288, trên sông Bạch Đằng kết thúc bằng hai câu thơ:

“ Kẻ thù đã chạy, hòa bình được lập lại cho đến ngàn năm

Công lao không phải của đất đai, mà là của các đức tính của con người. ”

Thời kỳ này còn để lại hai tác phẩm có khuynh hướng tôn giáo là Việt điện u linh, tuyển tập nhũng truyện kể về các vị thần trên, những danh nhân hiển thánh được cho là tác phẩm của Lý Tế Xuyên và Thiền uyên tập anh , tuyển tập về thân thế và trước tác của những nhà sư cho đến đời nhà Trần.

Văn học chữ Nôm đã xuất hiện ở thế kỷ XIV, với Nguyễn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố, nhưng các tác phẩm của họ được kể trong sử biên niên ngày nay không còn. Truyền thống kể rằng khi vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành để đổi lấy hai châu Ô và Lý, đã nở rộ những bài thơ Nôm châm biếm chỉ trích hành động này. Sự xuất hiện các tác phẩm bằng chữ Nôm đánh dấu một mốc quan trọng trên con đường phát triển của văn học dân tộc. Vào cuối thế kỷ XIII, Hồ Quý Ly dịch Kinh Thi, tác phẩm kinh điển của Khổng học ra chữ Nôm.

Thời đại Lý Trần cũng đã chứng kiến sự ra đời của các tác phẩm đầu tiên viết về lịch sử. Dưới thời nhà Lý, Đỗ Thiện viết một cuốn lịch sử đất nước, sách đã bị thất lạc nhưng đã được trích dẫn trong Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái. Nhà Trần đã cho lập sử quán Trần Tân soạn cuốn Việt chí làm nguồn cảm hứng cho nhà sử học lớn Lê Văn Hưu năm 1272, viết nên tác phẩm Đại Việt sử ký gồm ba mươi chương, kể lại lịch sử của đất nước từ thời Triệu Đà đến cuối đời nhà Lý.

Tác phẩm của Lê Văn Hưu cũng đã thất truyền nhưng phần lớn nội dung đã được Ngô Sĩ Liên về sau thu nhận để viết nên cuốn Đại Việt sử ký toàn thư gồm ba mươi chương. Vào cuối đời Trần, có cuốn Đại Việt sử lược , tác giả vô danh, đến thế kỷ XVIII, người ta tìm thấy được in lại ở Trung Quốc. Sử cũng ghi lại rằng Hồ Tông Thốc cũng đã có biên soạn hai bộ sử biên niên là Việt sử cương mục và Nam Việt thế chí . Cả hai tác phẩm này đã biên mất. Dưới thời Trần cũng đã có biên soạn những sử biên niên ghi lại những chiến công chống quân Mông Cổ và vương quốc Ai Lao. Lê Tắc bỏ trốn sang Trung Quốc vào đầu thế kỷ XIV, đã soạn cuốn An Nam chí luợc .