Nghệ thuật thời Lý - Trần
Nhờ độc lập và ổn định, một nền nghệ thuật dân tộc đã có thể phát triển mặc dù vẫn mang dấu ấn ảnh hưởng của nghệ thuật Trung Hoa và một phần thứ yếu của nghệ thuật Chàm. Dưới thời Lý, ảnh hưởng Chàm rõ nét đặc biệt trong âm nhạc Theo sách An Nam chí lược , dưới thời Trần “ người ta chơi thứ trống tiểu hình trụ của Chiêm Thành tiếng thanh và trong. Loại trống tiểu cổ này được dành cho nhã nhạc dùng riêng cho nhà vua, cả các vị hoàng thân và đại thần cũng không được phép dùng nhã nhạc, trừ trong nghi lễ. Các thứ đàn cầm, tranh, tì bà có bảy hoặc hai dây, các thứ sáo thì bất cứ ai dù sang hay hèn, cũng đều được dùng. Các bản nhạc được chơi nhiều vô kể” .
Sân khấu chèo dân gian xuất hiện hồi thế kỷ thứ X, tiếp tục phát triển. Một tù binh bắt được trong cuộc chiến tranh xâm lược của quân Mông Cổ tên là Lý Nguyên Cát đã có những đóng góp lớn cải tiến sân khấu tuồng cổ điển.
Ở triều đại nhà Lý, hai ngành nghệ thuật sáng chói nhất là kiến trúc và làm gốm. Sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phật đã sản sinh ra rất nhiều chùa chiền, mà một số trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất, đã tồn tại cho đến ngày nay. Nhưng không may là những tàn phá vì chiến tranh và khí hậu đã hủy hoại gần hết những công trình nghệ thuật của thời kỳ đó. Những gì còn sót lại chỉ đủ để cho chúng ta một ý niệm về những gì đã từng được xây dựng. Một số công trình thuộc đời nhà Lý đã bị các sử gia Pháp nhầm lẫn gán cho một thời kỳ trước đó, thời kỳ Đại La (thế kỷ IX).
Trên bia Linh Xung dựng năm 1126, viết rằng bất kỳ ở đâu có cảnh đẹp thì ở đấy có dựng một ngôi chùa, một trong những nét kiến trúc đại diện chủ yếu của những ngôi chùa này là hòa mình vào với cảnh vật xung quanh, nhà cửa lồng vào trong cây cỏ xanh tươi, vườn và suối là một bộ phận hợp thành của tổng thế kiến trúc; thường thường là một ngọn đồi, một dòng sông hay suối nhỏ lượn quanh hoặc chảy qua trước ngôi chùa như một cái khung của bức tranh phong cảnh và những gióng chuông chùa sớm chiều chầm chậm điểm từng tiếng một trong bầu không khí tĩnh lặng hình như cũng là một bộ phận của thiên nhiên.(5)
Quy mô của một số ngôi chùa rất lớn, đủ sức chứa được hàng nghìn khách thập phương luôn kéo đến vào những ngày lễ lớn. Có một số chùa như chùa Diên Hựu, gọi là chùa Một Cột, được xây đựng năm 1049, chỉ đơn giản gồm có một cây cột đá dựng giữa một vùng nước giống như một tấm gương, trên đỉnh cột là một tòa bằng gỗ đường nét thanh nhã, toàn bộ giống một bông sen nở trên ngọn cành sen.
Mô-tip bông sen thường hay được sử dụng trong xây dựng. Bông sen là biểu tượng của cái đẹp và sự trong sáng bởi nó ''gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn''. Những cây cột cũng thường được dựng trên những chân cột hình bông sen, có những chiếc cột như thế bằng đá đôi khi có kích chiều rất lớn, như vết tích hiện còn lại của một chiếc cột của chùa Giạm được dựng năm 1086, chân cột có đường kính 4,5 m và thân cột có chu vi 3,5 m. Xung quanh chân những cây cột này là những viên đá được trang trí hình ngọn sóng, gây ấn tượng những chiếc cột nổi lên giữa một đại dương đang nổi cơn cường nộ. Chiếc cột vừa nhô lên khỏi mặt nước tức thì một cặp rồng đến cuốn quanh thân cột, mình rồng uốn khúc mềm mại nhưng tràn đầy sức mạnh.
Chùa có mái cong và thường có một tòa tháp, có những tháp cao đến mười hai tầng. Ngoài mặt kiến trúc, các chùa này còn đặc sắc ở sự phong phú về các tác phẩm điêu khắc và nghệ thuật tạc tượng.
Ở chùa Phật Tích, các chân cột mang những hình điêu khắc trên đá thể hiện ở chính giữa một cây bồ đề (nơi Đức Phật đã đạt Đại Giác hoàn toàn), với hai tín đồ đang dâng lễ vật và sau lưng họ là bốn nhạc công vừa múa vừa chơi các loại nhạc cụ. Có hoa rải khắp hiện trường. Không khí vui tươi, các động tác mềm mại không chút gì gợi đến những suy tư của nhà Phật về tính hư vô của sự vật.
Những di vật còn lại ở vùng ngoại ô tây bắc của Hà Nội, nơi có cung điện của các vua nhà Lý, cho thấy sự phong phú rất mực của các kiểu chạm trổ, tượng, mô-tip rất hay gặp là những con cá sấu với chiếc đầu ngỏng lên, cặp mắt lồi to như đang nhìn sang phải sang trái, những lỗ mũi như đang phập phồng, thân sấu uốn lượn mềm mại và con vật trên những đôi chân rướn thẳng như đang sẵn sàng chồm tới. Có những tượng sư tử bằng gốm có tính cách điệu hóa cao.
Những khai quật năm 1965, trên địa điểm chùa Chương Sơn được xây dựng năm 1105, đã phát hiện những hình chim mang thân người giữa nhiều mô-tip khác đặc biệt là các mô-tip bông hoa cúc, chim phượng hoàng và nhất là rồng thường được thấy trong những công trình thuộc thời kỳ đó. Rồng thì hầu như trong tất cả các công trình xây dựng đều có, một con vật huyền thoại nhưng hình ảnh được khắc sâu trong truyền thống dân tộc. Theo truyền thuyết, người Việt Nam là con của rồng và một khi nền quân chủ được thiết lập, rồng trở thành biểu tượng của nhà vua. Rồng đã xuất hiện ở Trung Quốc từ đời Hán mang đậm dấu ấn nghi thức tôn giáo, chi tiết chân rồng, vuốt rồng, vẩy rồng, bờm rồng đều tạc rất rõ nét, con vật uốn lượn giữa những đám mây được cách điệu hóa, tất cả trông như cứng đọng lại nhằm tạo nên một ấn tượng uy nghi, thậm chí như muốn bắt người ta phải sợ. Rồng trong các công trình của triều đại nhà Lý tự nhiên hơn, ta còn thấy rõ hình dáng con rắn mà từ đó nó đã thoát thai, thân hình uốn khúc mềm mại, đuôi mút nhọn, chẳng chút cầu kỳ, chân có móng gợi nghĩ đến chân chim và bờm là bờm ngựa. Đầu rồng nhô, lỗ mũi rõ nét và trên đỉnh đầu là hai đường xoắn hình chữ S, đặc điểm của những chiếc trống đồng thời đại Đông Sơn. Đến đời Trần, cùng với quá trình nền quân chủ ngày càng củng cố quyền lực của mình, con rồng mang tính nghi thức tôn giáo hơn, cứng nhắc hơn. Người ta thấy rõ sự đối kháng giữa hai khuynh hướng, một bên là khuynh hướng “tự nhiên” dân gian, coi hình tượng con rồng là sự tổng hợp một số tín ngưỡng nào đó đã có từ rất xa xưa, và một bên là khuynh hướng xưng vương, thậm chí xưng đế, con rồng trở thành biểu tượng uy nghi, đầy đe dọa của nhà vua.
Nghệ thuật nặn tượng cũng phát triển theo hai hướng. Một mặt là tượng những ông Phật ngồi trên tòa sen, đắm mình trong suy tư; những nếp gấp của chiếc áo, cũng như những nét thư giãn trên mặt, đầy vẻ hiền từ, tất cả tạo nên một ấn tượng an bình, tĩnh lặng và có thể nói là người ta hầu như thấy được đằng sau những mí mắt khép kín nguồn ánh sáng nội tâm nơi thánh nhân. Mặt khác, là những bức tượng của những ông thần hộ vệ với vẻ đẹp oai phong của con nhà võ kiên quyết, sẵn sàng chiên đấu.
Nếu đạo Phật đã xây dựng rất nhiều chùa thì nghệ thuật Khổng giáo dưới triều Lý đã dựng nên Văn Miếu với những hàng hiên và những nhà thờ được bố trí theo một trật tự đơn giản giữa những khu vườn. Nằm ở trung tâm lối đi chính và Khuê Văn Các, gác này có sườn trổ những lỗ cửa hình tròn, cuối lối đi là nhà đại bái, một tòa nhà dài trên mái có long và phượng.
Nghề gốm phát triển mạnh dưới thời Lý. Những trung tâm lớn sản xuất đố gốm như Bát Tràng hay Thanh Hóa từ thời Lý đến nay vẫn liên tục hoạt động với những sản phẩm hết sức đa dạng, từ những vật dụng hàng ngày đến những đồ trang trí đồ gốm hay đồ sứ với những nước men tình tế. Đẹp nhất là những đồ men màu xanh, màu trắng sữa hoặc xám hạt dẻ với nhiều sắc thái, một thứ men đục mà vẫn láng bóng. Sự trang trí rất đa dạng, những bông hoa, những con rồng, những đóa sen, những con chim và nếu còn chỗ thì là bức tranh nền vẽ phong cảnh và nhân vật. Những hình vẽ và hình đắp nổi bao giờ cũng giữ được tính chất tự nhiên với những đường nét uyển chuyển, một không khí vui tươi, những con chim đang bay lượn, những con voi và những vũ công đang cử động, hòa hợp với những tràng hoa đang nở hoặc tương phản với những điệu bộ uốn éo của các chiến binh. Những ngọn tháp bằng sứ đặc sắc được trang trí rất phong phú. Các sản phẩm bằng sứ được xuất khẩu hoặc đem tặng đến tận các vị hoàng đế Trung Quốc. Nghệ thuật sành sứ thật sự đã đạt tới đỉnh điểm dưới thời nhà Lý.
Nghệ thuật của đời Trần tiếp tục nghệ thuật của đời Lý, người ta tiếp tục xây dựng những cung điện và lăng tẩm của nhà vua. Đặc biệt đáng chú ý là tháp Phổ Minh bằng đá được xây đựng năm 1305, cao mười bốn tầng, hai tầng dưới cùng xây bằng đá, các tầng trên bằng gạch. Chân tháp là một đóa sen khổng lồ nở trên mặt nước. Tháp Bình Sơn còn bảo tồn được đến ngày nay, đã hơi nghiêng, tháp còn lại mười hai tầng, cao tất cả là 15m. Toàn bộ tháp xây bằng đất nung, các mặt tháp được trang trí phong phú bằng hoa sen và những loài hoa khác, cùng với những con rồng, sư tử, những lá cây bồ đề. Các con rồng đã mất đi cái vẻ tự nhiên của chúng, cùng với nét trang trí hình chữ S trên đầu. Từ những công trình xây dựng của đời Trần, chúng ta còn giữ được những tác phẩm chạm trổ trên gỗ thật đặc sắc, chắc chắn là nghệ thuật chạm trên gỗ đã có từ lâu trước đó, nhưng các công trình đã không chống chọi nổi với sự tàn phá của khí hậu và mối mọt. Nghệ thuật chạm trên gỗ đã lấy lại tất cả những mô-tip và chủ đề mà chúng ta đã thấy.
Trong số những công trình xây dựng lớn của thời kỳ nhà Trần, cũng cần phải nói đến thành Tây Đô do Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397, tại tỉnh Thanh Hóa và trong một thời gian ngắn đã giữ vai trò kinh đô; thành hình chữ nhật, dài 900 m, rộng 700m với những lũy cao 6m, được xây bằng những khối đá lớn có khối dài đến 6m, rộng 1,7m và cao 1,2m, nặng 16 tấn. Chỉ còn lại một số vết tích của những cung điện cũ, một vài con rồng bằng đá rướn mình trên đọc các bậc thềm. Các cổng vòm được xây dựng bằng những khối đá rất lớn.
Xem thế thì thấy rõ kỹ thuật kiên trúc đã đạt đến một tịnh độ cao so với những kỹ thuật khác như kỹ thuật đúc súng đại bác. Hồ Nguyên Trừng bị quân Minh bắt làm tù binh, được Hoàng đế nhà Minh giao trách nhiệm làm súng đại bác cho quân đội
Ngành thiên văn cũng có phát triển ít nhiều. Sử biên niên chép rằng: Dưới đời nhà Trần, một viên quan tên là Đặng Lộ, phụ trách làm lịch đã phát minh được một dụng cụ để quan sát các hiện tượng trên trời.
Dưới triều vua Trần Duệ Tông (1341 - 1369), có vị lương y nổi tiếng là Tuệ Tĩnh, chuyên nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh của các thứ cây cỏ trong nước. Năm 1352, ông được phái sang Trung Quốc để chữa bệnh cho hoàng hậu nước này. Ông đã để lại nhiều sách thuốc quý, trong đó nổi tiếng nhất là cuốn Nam dược thần hiệu .