Chế độ ruộng đất và những chuyển biến của nền kinh tế
Sau chiến thắng, Lê Lợi ra lệnh tịch thu tất cả ruộng đất từng thuộc về tay của bọn quan lại nhà Minh, của những phần tử phản bội và của những hoàng thân và đại thần nhà Trần đã không còn nữa. Đất đai của Nhà nước một phần do chính quyền trực tiếp khai thác, một phần chia cho các đại thần và quan lại. Khác với chế độ đại điền trang thời nhà Trần, chế độ mới chỉ cho phép các quan thu tô ruộng đất chứ không được tùy nghi định đoạt số phận riêng của người nông dân nay đã thuộc thẩm quyền trực tiếp của Nhà nước. Như vậy là sự tập trung hành chính được đẩy lên một trình độ cao hơn và thân thế của người nông dân được cải thiện.
Lê Lợi năm 1429, rồi Lê Thánh Tông năm 1477, đã an định và cải tiến quy tắc phân chia công điền trên cơ sở những nguyên tắc sau đây:
Tất cả mọi người đều có quyền được chia, căn cứ trên một bảng định sẵn tùy theo chức tước của từng người, cứ sáu năm chia lại một lần. Nông dân nộp tô cho Nhà nước, mức tô nói chung là thấp hơn mức phải nộp cho địa chủ.
Việc chia công điền công thổ ở làng xã đã có từ thời rất xa xưa, tuy nhiên chỉ đến đời nhà Lê nhà nước phong kiến mới trực tiếp can thiệp vào các công việc của làng xã một cách chính xác rạch ròi đến như vậy. Do điện tích công điền rất lớn, quy định trên đây đã có tác dụng kích thích sản xuất.
Một mối quan tâm nữa của các vua Lê là đảm bảo quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất cho các địa chủ. Ruộng đất của tư nhân được miễn thuế và luật pháp cho phép người nào đã giữ từ lâu một khoảng đất được trở thành chủ sở hữu của đất đó. Cả một hệ thông luật pháp điển hóa việc mua bán, cầm cố ruộng đất, những tranh chấp kiện tụng về quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng vậy. Cách thức viết các văn tự cũng được quy định rất chi tiết. Tiếp theo tình trạng các đại điền trang bị phân tán manh mún, việc chính chuyền sở hữu ruộng đất đã kích thích nông dân sản xuất.
Các vua Lê hết sức quan tâm đến phát triển sản xuất nông nghiệp: Những ruộng đất bị bỏ hoang trong những năm chiến tranh nhanh chóng được phục hóa trong khi nhà nước đẩy mạnh việc khai khẩn những đồn điền của nhà nước trên những vùng đất công bị bỏ hoang, để như lời của vua Lê Thánh Tông ''tập trung mọi lực lượng của chúng ta vào nông nghiệp, tăng cường tiềm lực của chúng ta''. Tư nhân cũng được khuyến khích khai hoang. Những công cuộc khai khẩn này hướng vào vùng miền núi hoặc vùng bờ biển được phù sa bồi đắp dần. Đê điều được đặc biệt chú ý và gặp khi khẩn cấp, cả quân đội lẫn các nho sinh đều được huy động đi đắp đê. Binh sĩ và những người phục dịch trong cung vua đều lần lượt được phái đi làm công việc đồng áng; mùa màng và gia súc đặc biệt được bảo vệ.
Một chính sách như thế đã khuyến khích mạnh mẽ nông nghiệp phát triển và trong suốt thế kỷ XVI cả nước không phải trải qua những trận đói lớn.
Thủ Công nghiệp vẫn còn giữ tính chất là nghề phụ của nông dân, tuy nhiên đã phổ biến rộng rãi và đã có nhiều làng chuyên về một số nghề: tơ lụa, nấu rượu, đồ gốm, sành sứ, nung vôi. Nghề thuộc da đã được nhập từ Trung Quốc ở thời đó. Ở các thành phố, nhất là Thăng Long, đất kinh kỳ, thợ thủ công tập hợp trong từng khu phối hợp thành những phường nghề phải tuân theo một hệ thống pháp quy chặt chẽ.
Có nhiều mỏ được khai thác: bạc, thiếc, sắt, chì, vàng, đồng.
Một cơ quan của nhà vua phụ trách kỹ nghệ, quản lý những xưởng của hoàng gia chuyên sản xuất các vật dùng cho triều đình không bán trên thị trường. Những xưởng này cũng kiêm việc đúc tiền. Làm việc ở những xưởng này là những thợ thủ công bị trưng dụng, những nô lệ; chế độ lao động này chẳng chút khuyến khích ngành thủ công phát triển.
Những chợ khu vực được lập ra khắp nơi khuyến khích sự phát triển của thương mại. Lê Lợi hủy bỏ loại tiền giấy do Hồ Quý Ly đặt ra, trở lại dùng tiền đồng, các đơn vị đo lường chiều dài, trọng lượng, khối lượng, diện tích đều được thống nhất cũng như các kích chiều của một số mặt hàng như vải vóc, giấy. Nhà nước kiểm soát nghiêm khắc ngoại thương, phải có giấy phép của Chính phủ mới được giao dịch với nước ngoài và chỉ được giao dịch tại một số địa điểm nhất định. Nhiều tầu buôn của ngoại quốc bị từ chối không được phép cập bến. Sự kìm hãm hoạt động ngoại thương như thế sẽ luôn luôn là một đặc điểm của chế độ quân chủ phong kiến.