← Quay lại trang sách

Tổ chức hành chính, quân sự và pháp lý

Các đại điền trang không còn, sự tập trung hành chính đạt đến đỉnh điểm. Triều đình được tổ chức lại với sáu bộ; các chức vụ tể tướng đầu triều và nguyên soái thống lĩnh quân đội bị bãi bỏ để nhà vua trực tiếp nắm giữ. Bộ máy quan lại nắm việc cai trị các tỉnh và các đạo; đứng đầu các xã là những hương chức ít hay nhiều tùy thuộc số dân trong xã. Việc lập những xã mới cũng như việc bầu hương lý đều được quy định tỉ mỉ. Năm 1467, vua Thánh Tông cho vẽ bản đồ của tất cả các xã để hợp thành một bản đồ cả nước. Đấy là tấm bản đồ trọn vẹn toàn quốc đầu tiên trong lịch sử. Cả nước được chia thành những đạo, tỉnh, huyện, xã.

Quân đội lúc chiến tranh giải phóng kết thúc gồm 250.000 người, được giảm xuống còn 100.000 người, chia thành 5 đội quân phiên nhau làm nghĩa vụ quân sự thường trực và các công việc đồng áng. Công thức nông - binh ra đời từ thời nhà Lý vẫn được áp đụng. Trừ những trai tráng được gọi vào lính theo nghĩa vụ quân sự, còn có những người được ghi tên vào số quân trù bị.

Bộ máy quan lại hợp thành một tầng lớp được hưởng những đặc quyền: được cấp phát ruộng đất, nhà cửa, y phục đặc biệt, nhưng không được quyền sở hữu những điền trang kèm với nông nô, không được có quân đội riêng như dưới thời nhà Trần. Các thành viên của hoàng tộc được hưởng những đặc quyền đặc lợi lớn, nhưng lại không được quyền tham gia lãnh đạo đất nước, hoặc cai trị những tỉnh lớn như thời nhà Trần.

Bộ máy lập pháp đã được hoàn thành để phục vụ chế độ cai trị tập trung và xã hội đang phát triển lúc bấy giờ. Năm 1483, luật Hồng Đức được ban bố, đã pháp điển hóa, hệ thống hóa các luật lệ hiện hành thành bộ luật hoàn chỉnh nhất của nước Việt Nam truyền thống, có hiệu lực đến tận thế kỷ XVIII. Bộ luật này được các triều vua sau bổ sung, gồm 721 điều chia thành 6 tập.

Đặc biệt bộ luật Hồng Đức quy định các luật lệ bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước, của các địa chủ. Luật bảo đảm quyền của người cha trong gia đình, của người vợ cả, người con trai ca, quy định các nghi lễ về cưới xin và ma chay. Có bốn ''trọng tội'' bị trừng phạt nghiêm khắc, đặc biệt trong đó là tội làm loạn và tội bất hiếu. Tuy mang cốt cách phong kiến và Khổng giáo, luật Hồng Đức vẫn có những mặt tiến bộ. Đặc biệt các quyền của người phụ nữ đã được tính đến. Người phụ nữ được quyền sở hữu ruộng đất, quyền được chia tài sản thừa kế một cách bình đẳng với đàn ông và khi không có con trai thì con gái có thể thừa hưởng toàn bộ tài sản của gia đình. Người vợ có quyền bỏ chồng, nếu trước đó người chồng đã bỏ mặc vợ trong một thời gian nhất định nào đó. Đến thế kỷ XIX, khi chế độ quân chủ phong kiến được phục hồi dưới những hình thức lạc hậu nhất của nó, tất cả những điểm trên đây bị hủy bỏ. Luật Hồng Đức là biểu hiện pháp lý đặc thù của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ không còn chịu ảnh hưởng nào của Trung Quốc.

Với những vua Lê đầu tiên, đặc biệt là Lê Thánh Tông, nền quân chủ phong kiến Việt Nam đã đạt tới điểm cực thịnh. Sau đó, chế độ quân chủ và bộ máy quan lại sẽ còn tiếp tục đóng một vai trò tích cực đối với sự phát triển của lịch sử.