Khổng giáo và các nho sĩ
Các tác phẩm Khổng giáo qua sự diễn giải của Chu Hy (đời Tống ở Trung Quốc) trở thành hệ thống học thuyết mà thí sinh muốn thi đỗ để làm quan bắt buộc phải quán triệt sâu sắc. Năm 1484, tên những người đỗ thi đình được khắc lên những tấm bia đá dựng ở Văn Miếu tại kinh đô. Các ông vua đều nghiên cứu Khổng giáo một cách thấu đáo. Lê Thánh Tông - một nhà nho hay chữ, đích thân thảo những bài luận lý để dạy dân.
Khổng giáo phục vụ một cách tuyệt vời chế độ dựa trên quyền năng tuyệt đối của ông vua và được quy định theo một hệ thông trật tự thứ bậc chặt chẽ, vua thì trị vì, các quan thì cai trị nhân dân, tuy đã được giải phóng khỏi chế độ nông nô, nhưng vẫn còn phải chịu rất nhiều sưu cao thuế nặng. Gạt bỏ mọi khuynh hướng thần hiệp, Khổng giáo hướng con người vào việc thực hiện các bổn phận xã hội của mình, đặt ở đỉnh cao nhất của những nghĩa vụ đó là lòng trung tuyệt đối với nhà vua và sự tôn trọng hệ thống tôn ti của xã hội. Thờ vua, làm rạng danh cho cha mẹ, trung thành với chồng mình cho đến chết, quản lý việc gia đình của mình, tham gia việc cai trị đất nước, đó là những nghĩa vụ mà Khổng giáo quy định cho tất cả mọi người. Ai nấy phải tự tu thân, phải tự trau dồi bằng học tập và làm theo lễ để có đủ sức hoàn thành tất cả những bổn phận trên.
Đã có hai phân lực tác động trong việc nước Việt Nam ở thế kỷ XV, lấy đạo Khổng làm học thuyết chính thức của mình. Một mặt, Khổng giáo được dùng làm công cụ ý thức hệ phục vụ cho chế độ quân chủ và bộ máy quan lại, nhưng mặt khác do chế độ này vào thời kỳ đó là một bước tiến so với chế độ cai trị của quý tộc thời nhà Trần, cho nên chủ nghĩa duy lý của Khổng giáo là một bước tiến, so với đạo Phật của những thế kỷ đã qua. Chúng ta sẽ thấy hiện lên hình ảnh của hai kiểu người nho sĩ của đạo Khổng, một là hình ảnh của một kẻ phục vụ nhà vua, thường là chống lại nhân dân, bo bo giữ gìn những đặc quyền đặc lợi của mình, và một bên là hình ảnh của một con người thấm nhuần một lý tưởng về đạo đức xã hội và cá nhân, trung thành với tổ quốc, lo lắng đến những bổn phận làm người của mình, hiếu học và hào hoa phong nhã, nhưng thường hay bị xơ cứng trong một thứ chủ nghĩa nghi thức ngặt nghèo.
Trong thời kỳ đầu của nhà Lê, khi nền quân chủ còn có vai trò tích cực và nhất là trong thời kỳ anh dũng đấu tranh giành độc lập, hai nhân vật trên nhập làm một, người nho sĩ thực hiện lý tưởng của mình bằng cách phục vụ nhà vua. Khi nền quân chủ bước vào giai đoạn suy tàn thì thật khó cho nhà nho thờ vua mà lại không làm trái với lý tưởng của mình. Thường thì hai nhân vật này cùng chung sống trong một con người, trở nên hai vai chính tương phản trong một tấn kịch lương tâm thường là đau xé ruột gan. Những nhà nho sáng suốt nhất không phải là mù quáng không thấy được những khuyết tật của nền quân chủ, nhưng từ chối không phục vụ nhà vua, rút lui về ở ẩn như thế là phủ nhận những bổn phận làm người của mình, còn vâng lời vua, thì thường là làm hại cho dân. Cần chú ý rằng có một khuynh hướng trong Khổng giáo cho dân được quyền nổi dậy khi nhà vua tỏ ra là không xứng đáng. Nhưng đối với tất cả những người theo Khổng giáo, nổi loạn chống lại nhà vua vẫn là trọng tội lớn nhất, bởi vì làm như vậy thì toàn bộ trật tự xã hội, thậm chí cả trật tự càn khôn bị đảo lộn.