Nhà Tây Sơn tái thống nhất và đổi mới
Cũng như chế độ nhà Trịnh, chế độ nhà Nguyễn ở miền Nam cũng sa vào một cuộc khủng hoảng tương tự, sâu sắc và không phương cứu chữa. Trên vùng đất của chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ, đã khởi phát một phong trào khởi nghĩa quét sạch các chế độ Nguyễn và Trịnh, thống nhất lại đất nước, đặt những tiền đề cho một cuộc đổi mới dân tộc. Khốn thay, vì những lý do mà chúng tôi sẽ thử cố gắng phân tích nhà Tây Sơn không giữ được quyền bính lâu dài và ngay từ đầu thế kỷ XIX, các thế lực phong kiến phản động đã lại thắng thế phục hồi chế độ phong kiến dưới những hình thức lạc hậu nhất của nó.
Khủng hoảng của chế độ nhà Nguyễn
Cũng như ở miền Bắc, dưới chế độ của nhà Nguyễn, nạn chiếm đoạt ruộng đất bởi tay của địa chủ, quan lại và hào lý đã dồn đông đảo nông dân vào cảnh khốn cùng và phá sản. Trên lãnh địa của các chúa Nguyễn, trong một thời gian, vẫn nạn này đã tìm được một lối thoát trong công cuộc khai thác những miền đất mới của đồng bằng sông Mê Kông; các đất đai được nông dân vỡ hoang, tuy rằng sau đó đã bị địa chủ chiếm đoạt, vẫn còn khá rộng và đủ độ phì nhiêu để làm dịu bớt cuộc khủng hoảng. Nhưng ở các tỉnh thuộc Trung Bộ, diện tích canh tác chật hẹp đến nỗi chỉ cần bị chiếm đoạt chút ít là người nông dân nghèo không còn đất sống. Ngay từ năm 1613, triều đình chúa Nguyễn đã phải can thiệp bằng cách thiết lập một địa bạ nhằm hạn chế quy mô sở hữu ruộng đất. Sự can thiệp mang tính hành chính này chỉ có hiệu quả nhất thời, trong các làng xã, địa chủ và hào lý, được sự đồng lõa của quan lại, phớt lờ phép nước. Năm 1669, trước tình trạng gay gắt của cuộc khủng hoảng, chúa Nguyễn lại ban hành lệnh cấm chiếm đoạt ruộng công. Nhưng theo sử gia Lê Quý Đôn, vào thế kỷ XVIII, lệnh Chúa vẫn không ngăn được tình trạng rất nhiều xã không còn ruộng đất công để chia cho nông dân theo định kỳ. Tình trạng đó tác hại đến sản xuất lúa gạo ở các tỉnh này và ở thời kỳ đó, khu vực miền trung đã buộc phải mua gạo từ khu vực Gia Định (Sài Gòn).
Đè nặng lên vai giai cấp nông dân đã bị dồn đến cảnh bần cùng như vậy là muôn vàn thứ đóng góp mà triều đình nhà Chúa áp đặt cho họ, một mặt để theo đuổi đường lối chiến tranh hầu như liên miên, chiến tranh chống Trịnh, chiến tranh bành trướng lãnh thổ lấn đất của Campuchia; và mặt khác, để ngày càng dấn sâu vào cuộc sống hưởng lạc xa hoa. Các chúa Nguyễn đánh thuê nặng mọi hoạt động nông nghiệp, thủ công hay thương nghiệp, bắt nông dân phải đóng góp bằng tiền và hiện vật, gỗ quý, mây song, vải vóc... Số thuế của làng Cao Xá tỉnh Thuận Hóa (khu vực Huế) chẳng hạn cho thấy cứ 53 người có ghi tên thì 9 người được miễn, 44 người còn lại hàng năm phải đóng các loại thuế má tổng cộng là 138 quan tiền (giá một con trâu lớn ở thời ấy là 40 quan, vào những lúc khó khăn). Không kể những đóng góp bằng hiện vật, sử biên niên cho biết vào năm 1746, triều đình chúa Nguyễn hàng năm thu từ 338.000 đến 423.000 quan tiền tùy từng năm, 840 đến 890 lượng vàng và nhiều nghìn lượng bạc.
Sử gia Lê Quý Đôn ghi rằng, nếu “ nhà nước thu một phần thì các quan thu thuế thu riêng cho họ hai phần ”.
Ngay từ thế kỷ XVII, khi chính quyền của họ đã được củng cố, chúa tôi nhà Nguyễn đắm mình vào một cuộc sống xa hoa vô độ. Các hậu cung đầy ắp đàn bà, chúa Nguyễn Phúc Chu có đến 146 người con. Họ xây dựng nhiều cung điện với gỗ quý được chạm khắc phong phú, ăn mặc lụa là gấm vóc. Kinh đô Phú Xuân (Huế) vươn lên tầm vóc của một trung tâm đô hội. Lê Quý Đôn ghi: “ Từ triều Võ Vương (1738) lối sống xa hoa ngự trị, quan nhỏ bắt chước quan to: Nhà chạm khắc, tường xây bằng đá, trướng màn đều bằng lụa, bát đĩa đều là đồ đồng hay sứ, bàn ghế đóng bằng gỗ quý, yên cương ngựa được trang sức bằng vàng và bạc- họ coi vàng bạc như cát, hạt gạo như bùn
Bắt đầu từ năm 1765, thực quyền chuyển vào tay đại thần nhiếp chính Trương Phúc Loan. Viên quan này lợi dụng mọi cách để tạo cho mình một gia sản khổng lồ. Áp bức và độc đoán ngự trị, giai cấp phong kiến trở thành một giai cấp ký sinh cướp bóc và thối nát. Bộ máy quan lại đông lên vô kể, ở tất cả các cấp.
Các trận đói nối tiếp nhau, ít ra là ở các tỉnh thuộc Trung Bộ. Năm 1757, một báo cáo của viên quan Nguyễn Cư Trinh cho biết nhiều người dân đã không khai tên vào số bạ, người thì để trốn thuế, người thì bị dồn vào cảnh bần cùng phải trở thành những kẻ lang thang. Nền ngoại thương tàn lụi, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do bọn quan lại chuyên trách đòi ăn hối lộ quá nặng của những thương nhân nước ngoài.
Trên đất các chúa Nguyễn còn có thêm một nhân tố khác gây rối loạn: đồng tiền mất giá. Dân chúng tiêu tiền đồng, nhưng vì trên đất của chúa Nguyễn không có mỏ đồng (khác với đất của chúa Trịnh), triều đình nhà Nguyễn buộc phải đúc tiền kẽm, một chất hợp kim kẽm và thiếc, không bền bằng tiền đồng. Kết quả là tiền tệ bị mất giá nhanh chóng, giá cả tăng lên đi liền với những thủ đoạn đầu cơ của giới con buôn.
Báo cáo của Nguyễn Cư Trinh năm 1751 cảnh báo với các chúa Nguyễn: '' Thần xin vô cùng cung kính lưu ý rằng những khốn khổ của nhân dân đã đến chỗ cùng cực, nếu cứ tiếp tục cai trị một cách bàng quan, không tính đến những biện pháp thích hợp thì ngay đến việc điều hành một xã cũng không thể được, còn nói gì đến một tỉnh, đến cả nước? Dân chúng không còn gì để sống hàng ngày thì lòng dân làm sao yên được? ''
Ngay từ cuối thế kỷ XVII, những cuộc nổi dậy đã xảy ra ở nhiều tỉnh với sự tham gia của nông dân cũng như của những thương nhân và những người thuộc các dân tộc miền núi.
Sự cáo chung của các chúa Nguyễn
Năm 1771, ở làng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ bắt đầu khuấy động một phong trào khởi nghĩa; phong trào nhanh chóng lan ra các địa phương lân cận. Nguyễn Nhạc vốn là một viên quan nhỏ lo việc thu thuê, chẳng bao lâu sau đó, người em Nguyễn Huệ đã tỏ ra là một trong những nhân vật sáng chói nhất trong lịch sử Việt Nam.
Anh em nhà Tây Sơn ngay từ đầu đã đề ra cho phong trào một định hướng chính trị đúng đắn. Một mặt, họ tỏ ra là người bênh vực nông dân, bằng cách đó đã tập hợp được khối nông dân đông đảo, mặt khác họ tuyên bố chỉ muốn đánh vào viên quan nhiếp chính Trương Phúc Loan, để khôi phục uy quyền cho các chúa Nguyễn, nhờ đó gây chia rẽ trong hàng ngũ những người thuộc giới cầm quyền. Họ cũng biết lôi kéo về mình một số dân tộc ít người, đặc biệt là người Bahnar.
Theo lời thuật lại của một nhà truyền giáo người Tây Ban Nha (được nhà sử học người Pháp Jean Chesnaux trích dẫn trong cuốn Góp phần vào lịch sử của dân tộc Việt Nam, NXB Xã hội-Sociales, 1955 ):
“ Họ bắt đầu bằng cách đi khắp các làng, nói cho dân chúng biết mình chẳng phải là quân trộm cướp, mà là những sứ giả nhà trời, muốn cho đạo công bằng được ngự trị và giải phóng nhân dân khỏi ách chuyên chế của vua quan. Họ thuyết giáo về lẽ bình đẳng trên mọi mặt và trung thành với luận thuyết của mình, những sứ giả tiên tri này của chủ nghĩa xã hội hiện đại đã tước hết của cải của các quan lại và nhà giàu để chia cho người nghèo. Các làng xã đang bị nghẹt thở vì đủ thứ thuế má sưu dịch nặng nề đến quá quắt đã hăm hở tuyên thệ theo họ ”.
Sự quy thuận của dân chúng, nhất là của nông dân và cả sự ủng hộ của các dân tộc miền núi đã truyền một sức mạnh lớn cho phong trào. Năm 1776, quân Tây Sơn đánh chiếm thành phố Quy Nhơn, những thương nhân giàu có bị bộ máy quan lại nhà Nguyễn hà hiếp ủng hộ họ. Chúa tôi nhà Nguyễn đương đầu không nổi, để mất luôn hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam.
Các chúa Trịnh nhân cơ hội nhà Nguyễn gặp khó khăn để xâm chiếm lãnh thổ của họ. Cuối năm 1774, một đạo quân Trịnh chiếm kinh đô Phú Xuân và các chúa Nguyễn bị kẹt giữa hai làn đạn buộc phải bỏ chạy. Quân Trịnh và quân Tây Sơn ở vào thế đối mặt trong tỉnh Quảng Nam năm 1775. Quân Tây Sơn thương thuyết với nhà Trịnh để tập trung cố gắng thanh toán những tàn dư của đội quân nhà Nguyễn.
Sau khi chiếm được các tỉnh thuộc Trung Bộ, năm 1776, quân Tây Sơn kéo vào Gia Định. Các địa chủ ở đây tổ chức nhau lại để kháng cự nhưng vô ích, dinh lũy cuối cùng làm chỗ dựa cho các chúa Nguyễn sụp đổ. Chỉ duy nhất một mình chúa Nguyễn Ánh thoát được và cùng với phe cánh của mình kéo đến đúng ở miền Tây đồng bằng sông Mê Kông. Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng vương, đóng đô ở thành Đồ Bàn thuộc tỉnh Bình Định.
Nguyễn Ánh sau khi tổ chức lại lực lượng liền phản công, sau một thời gian chiếm lại được Gia Định và tỉnh Bình Thuận. Năm 1783, một chiến dịch phản công do Nguyễn Huệ chỉ huy, đã làm cho Nguyễn Ánh đại bại, phải chạy dài ra đảo Phú Quốc. Thế là Nguyễn Ánh cầu đến cái thứ vũ khí kinh điển của bọn phong kiến khi gặp bước nguy nan: cầu cứu nước ngoài. Nguyễn Ánh kêu gọi triều đình Xiêm tiếp cứu. Họ phải sang cho ông ta một đạo quân cứu viện 20.000 người (có tài liệu nói đến 50.000 người), cùng 300 chiến thuyền. Năm 1784, quân Xiêm xâm chiếm đồng bằng sông Mê Kông, Nguyễn Huệ đem quân nghênh chiến, dụ hạm đội Xiêm vào một trận địa phục kích trên sông Mỹ Tho ở đoạn Rạch Gầm - Xoài Mút. Cả đạo quân Xiêm chỉ còn lại 2.000 tên sống sót, phải kiếm đường bộ để chạy về phía tây (ngày 25 tháng Giêng năm 1785). Đây là một trong những chiến thắng đẹp nhất trong lịch sử của Việt Nam mà nét nổi bật là chiến lược tốc chiên tốc thắng. Chiến thắng này chặt đứt hẳn hướng bành trướng của quân Xiêm về phía Nam Bộ. Chân dung của nhân vật Nguyễn Huệ, nhà chiến lược kiệt xuất và anh hùng dân tộc, bắt đầu xuất hiện rõ nét, trái với Nguyễn Ánh, kẻ đã định núp bóng ngoại bang hòng trở lại ngai vàng.
Sự cáo chung của nhà Trịnh và tái thống nhất đất nước
Rảnh tay không còn phải đối phó với chúa Nguyễn, Tây Sơn quay lại đánh quân Trịnh lúc đó đã chiếm được Phú Xuân. Tháng 6 năm 1786, Nguyễn Huệ dẫn đầu binh mã vượt qua đèo Hải Vân đánh chiếm Phú Xuân rồi các tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình. Đếm đâu quân Tây Sơn cũng được dân chúng giúp đỡ đắc lực Triều đình chúa Trịnh lúc bấy giờ đang trong cơn khủng hoảng trầm trọng, các phe phái tranh nhau quyền lực. Quân Tây Sơn tiến nhanh lên phía Bắc. Tháng 7 năm 1786 đã đến đồng bằng sông Hồng. Nguyễn Huệ khôn khéo tự xưng mình là người bảo vệ vương triều nhà Lê đã bị các chúa Trịnh truất quyền. Sự ủng hộ của dân chúng, tinh thần chiến đấu của quân đội Tây Sơn và tài thao lược tuyệt vời của Bộ chỉ huy do Nguyễn Huệ đứng đầu đã nhanh chóng đánh bại quân Trịnh. Cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn kết thúc, đất nước lại được thống nhất, đó là một trong những công lớn của nhà Tây Sơn.
Nguyễn Huệ - người chiến thắng, nhanh chóng đến triều kiến vua Lê, được vua gả con gái Ngọc Hân làm vợ. Triều Lê được khôi phục quyền lực một cách long trọng. Ít năm sau, vua Lê Hiển Tông chết, Lê Chiêu Thống lên nối ngôi, còn Nguyễn Huệ thì trở về Nam.
Ông vua mới chẳng hiểu biết gì về thời cuộc, tưởng mình có thể chơi trò trứng khôn hơn vịt với quân Tây Sơn bằng cách tự phó thác mình trong tay của những phần tử phiêu lưu; bọn này nhanh chóng bị Nguyễn Huệ tiêu diệt và vua Lê Chiêu Thống bị dồn vào thế phải bỏ trốn khỏi kinh thành.
Đại thắng quân Thanh
Bị đánh bại, Lê Chiêu Thống trở mặt phản bội; ông ta kêu cứu triều đình Mãn Thanh đang trị vì Trung Quốc. Hoàng đế Càn Long nhà Thanh vốn nuôi tham vọng chinh phục lại nước Việt Nam, ủy cho tổng đốc Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh 200.000 quân để xâm lược Việt Nam. Ngày 20 tháng Mười âm lịch năm 1788, quân Thanh xuất phát nêu cao khẩu hiệu: ''Diệt Tây Sơn để phò nhà Lê''. Ngày 21 tháng Mười Một âm lịch, chúng vào Thăng Long, một chiếc cầu nổi được bắc qua sông Hồng, nối hai bờ do quân Thanh chiếm đóng.
Vua Lê Chiêu Thống được triều đình Bắc Kinh công bố là ''vua An Nam'' nhưng thực ra Tôn Sĩ Nghị mới là kẻ nắm hết mọi quyền binh và mỗi sáng dân kinh đô vẫn chứng kiến cảnh nhà vua cùng nhóm tùy tùng của mình kéo đến xin yết kiến tên quan toàn quyền nhà Thanh. Cộng thêm những sách nhiễu của quân Thanh đối với dân làng, bấy nhiêu đủ để mở mắt cho những ai đã hiểu lầm về những ý đồ thật sự của kẻ xâm lược. Chỉ riêng Lê Chiêu Thông và những phần tử phong kiến lạc hậu, muốn bảo vệ những đặc quyền đặc lợi của mình với bất cứ giá nào, là cứ khư khư bám chặt vào đuôi áo của kẻ chiếm đóng. Dân chúng ngày càng nổi giận, uy tín của vương triều nhà Lê vĩnh viễn bị tiêu tan.
Nguyễn Huệ lúc bấy giờ đang ở Phú Xuân. Ba anh em Tây Sơn trong thời gian đó đã chia nhau lãnh thổ. Người anh cả là Nguyễn Nhạc trị vì ở miền Trung đóng ở Quy Nhơn, Nguyễn Lữ được giao cho cai trị vùng Gia Định và đồng bằng sông Mê Kông, còn Nguyễn Huệ thì chịu trách nhiệm phần phía Bắc đèo Hải Vân.
Để đương đầu với cuộc xâm lược của quân Thanh, Nguyễn Huệ muốn hành động nhân danh toàn thể dân tộc bị nhà Lê phản bội. Trong một buổi lễ long trọng, ông để mọi người tôn mình lên làm vua, lấy vương hiệu là Quang Trung và lập tức ngay sau đó hạ lệnh tiến quân ra Thăng Long. Đó là ngày 21 tháng Mười Hai năm 1788. Ngày 26, quân Tây Sơn đã ở Nghệ An, Nguyễn Huệ duyệt một vạn quân và lên tiếng hô hào binh sĩ.
“ Quân Thanh đã xâm lược nước ta, chiếm kinh thành Thăng Long. Trong lịch sử của mình, để chống Hán chúng ta đã có Hai Bà Trưng; chống giặc Tống chúng ta có Đinh Tiên Hoàng; chống quân Nguyên có Trần Hưng Đạo; chống quân Minh có Lê Lợi. Các đấng anh Hùng đó đã không chịu khoanh tay nhìn quân thù dầy xéo đất nước ta, các vị đã dìu dắt nhân dân nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược. Quân Thanh quên mất những gì đã xảy ra cho bọn Tống, Nguyên, Minh đã xâm lược nước ta. Chúng ta sẽ đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi ”
Năm sắp hết. Lúc bấy giờ đã là 20 tháng Chạp âm lịch. Tới Ninh Bình, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho quân sĩ tổ chức ăn Tết trước và nói với họ:
“ Đến ngày mồng bảy tháng Giêng sang năm, chúng ta sẽ vào Thăng Long và sẽ mừng xuân tại đó. Hãy nhớ lấy lời ta và các ngươi sẽ thấy là đúng ”.
Quân Tây Sơn nghỉ mười ngày để tuyển thêm quân, đến 30 tháng Chạp, chia thành ba cánh lại tiếp tục tiến về Thăng Long. Cánh do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy xông thẳng theo hướng trực chỉ Thăng Long, hất khỏi đường tiến của mình các đồn tiền tiêu của địch và ngày mồng ba tháng Giêng, bao vây đồn Hạ Hồi, cách Thăng Long 20 km về phía nam. Quân địch đóng ở đồn này ra hàng (28 - 01 - 1789). Ngày 30 tháng 1, quân Tây Sơn, với tướng binh dẫn đầu, tiến công đồn Ngọc Hồi, cách Thăng Long 15 cây số về phía nam và nhanh chóng đánh chiếm đồn này. Con đường tiến đến Thăng Long đã mở.
Hai cánh quân kia của Tây Sơn nhanh chóng đánh chiếm các đồn bảo vệ thủ đô ở phía tây, đồn Đống Đa (nay thuộc Hà Nội) bị đánh chiếm sau một ngày chiến đấu dữ dội. Viên quan chỉ huy đồn này đã treo cổ lên cây tự tử sau khi bị bại trận. Các trận thắng của quân Tây Sơn diễn ra nhanh chóng đến nỗi tướng tổng chỉ huy quân Thanh là Tôn Sĩ Nghị chưa kịp trở tay thì quân Tây Sơn đã ở trong thành Thăng Long; hắn ta không kịp thắng yên cương và mặc áo giáp, cứ thế bỏ chạy cùng với một nhóm kỵ binh. Tướng tổng tư lệnh bỏ chạy làm cho toàn bộ quân Thanh hoảng loạn. Bọn chúng mạnh ai nấy được, xô nhau bỏ chạy qua chiếc cầu nổi và nhiều tên bị chết đuối.
Ngày mồng 5 tháng Giêng âm lịch năm 1789, đại quân Tây Sơn kéo vào Thăng Long và đến ngày mồng 7 thì ăn mừng chiến thắng, đúng như lời Nguyễn Huệ đã hứa. Trong vòng 6 ngày, các cánh quân Tây Sơn đã tiến 80 cây số và đánh bại một đội quân địch đông đến hai mươi vạn tên. Đó là trận chiến thắng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đã giành được trong một thời gian ngắn như thế. Được nhân dân ủng hộ, Nguyễn Huệ đã có công châm dứt thời kỳ phân tranh Trịnh - Nguyễn, thông nhất lại đất nước và đánh đuổi quân Xiêm, nay lại cứu đất nước khỏi sự thống trị của nhà Thanh. Triều đình nhà Thanh đành phải giảng hòa và thừa nhận Tây Sơn.
Sự nghiệp của Quang Trung
Nguyễn Huệ lên ngôi vua với vương hiệu là Quang Trung, tính chuyện dời đô vào tỉnh Nghệ An. Ông tổ chức lại quân đội bộ máy hành chính, giáo dục với sự giúp đỡ của những hiền tài. Dư đảng của nhà Lê tìm cách khuấy lên một vài cuộc nổi dậy nhưng vô ích.
Ngay khi mới lên ngôi, Quang Trung xuống chiếu buộc hương lý các làng xã phải gọi trở về những nông dân bị phá sản đang lang bạt khắp nơi trong nước và phải cầy cấy lại những ruộng đất bị bỏ hoang. Hạn trong một năm các xã phải chỉnh đốn lại các sổ đinh bạ và địa bạ, quá hạn đó những ruộng đất bỏ không cầy cấy sẽ phải nộp thuế gấp đôi. Chế độ phân chia công điền được quy định: những ruộng đất bỏ hoang hay của bọn phản quốc bị tịch thu làm ruộng của xã hoặc của nhà nước. Trước đó, nhà Trịnh chia công điền phần lớn cho các viên chức và binh lính, Quang Trung chủ yếu dành cho nông dân. Trong chiếu bàn về nông nghiệp, ông nói:
“ Điều quan trọng đối với một người làm vua là vun gốc, tỉa ngọn sao cho dân được yên vui, có ruộng để cày, không ai không có việc làm, ruộng đất không bị bỏ hoang ”.
Ngay từ năm 1791, nông nghiệp đang sa sút đã khôi phục lại được mức sản xuất bình thường.
Quang Trung cũng chăm lo phát triển thủ công và thương nghiệp. Từ năm 1788, ông đã nói riêng với người cố vấn của mình là Nguyễn Thiếp: “Ta muốn nước ta thôi không mua nhiều thứ vật dụng hàng ngày của nước ngoài nữa”. Nguyễn Huy Lượng một thi sĩ đương thời đã làm thơ ca ngợi sự phục hồi những làng nghề ở Thăng Long như sau:
Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút
Rập rềnh cuối bãi Đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm...
Chày yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm.
(Tụng Tây hồ phú )
Vua Quang Trung cũng muốn phát triển buôn bán với Trung Quốc. Những điều do các thương nhân và nhà truyền giáo phương Tây thuật lại có vẻ chứng minh rằng nhà Tây Sơn đã thực hiện một danh sách mở cửa. Chế độ thuế khóa so với thời Trịnh đã được đơn giản hóa.
Trong lĩnh vực văn hóa, cải cách lớn của Quang Trung là sử dụng chữ Nôm tức là ngôn ngữ dân tộc trong văn tự Nhà nước và giáo đục, thay cho chữ Hán đã được sử dụng từ nhiều thế kỷ. Năm 1791, Nguyễn Thiếp được giao nhiệm vụ dịch các kinh sách Khổng giáo Trung Hoa với ý định dùng để dạy học, việc này làm ông vấp phải sự phản đối của các nhà nho phản động hay lạc hậu. Quang Trung cũng tìm cách thay đổi nội dung giáo dục vốn đã bị thoái hóa thành một thứ học vẹt nhai lại từ chương sáo rỗng. Mỗi làng phải chọn một nhà nho có thể mở trường dạy học, các nhà nho của chế độ cũ buộc phải thi lại. Những kẻ phiêu lưu và ăn bám đã trốn tránh trong các chùa chiền tu viện của nhà Phật đều buộc phải trở lại đời thường, chỉ những người chân tu mới được phép ở lại. Các tu sĩ truyền đạo Công giáo không bị đàn áp.
Triều đại Quang Trung là một triều đại lớn vì những chiến công hiển hách cũng như những cải cách kinh tế và văn hóa mà triều đại đó đã tiến hành. Không may năm 1792, Quang Trung đột ngột qua đời và cả những anh em lẫn người con trai của ông ta đã không tiếp tục được sự nghiệp mà Quang Trung đã mở đầu.
Sự cáo chung của Tây Sơn và sự phục hưng của nhà Nguyễn
Phần đất khó bảo toàn nhất của vương quốc Tây Sơn là vùng Gia Định ở phía Nam. Tại đây, các phần tử địa chủ đã có thể tổ chức nhau lại và việc cai trị được giao cho Nguyễn Lữ, người em thứ ba của nhà Tây Sơn. Chúng ta thấy, Nguyễn Ánh đã tìm cách thử khôi phục lại quyền lực của nhà Nguyễn tại đây với sự giúp đỡ của người Xiêm và Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân xâm lược như thế nào (1784).
Vẫn không rời bỏ chính sách phản bội dân tộc, Nguyễn Ánh không chỉ cam tâm cầu viện người Xiêm, ông ta cũng đã tiếp xúc với một giáo sĩ truyền giáo người Pháp, Pigneau đe Béhaine (55), giám mục Adran. Ông này khuyên Nguyễn Ánh nên kêu cứu nước Pháp. Viên giáo sĩ này đem một người con trai của Nguyễn Ánh sang Pháp; với sự giúp đỡ của Hội truyền giáo nước ngoài, ông ta được bệ kiến vua Pháp Louis thứ 16 và ngày 28 tháng 11 năm 1787, một hiệp ước đã được ký giữa một đại diện của nước Pháp và Pigneau de Béhaine, thay mặt Nguyễn Ánh. Nước Pháp hứa viện trợ quân sự để đổi lấy hai đất nhượng địa là cửa Hàn (Tourane) đảo Phú Quốc và độc quyền tự do buôn bán trong nội địa Việt Nam. Ngoài Pháp ra không một quốc gia châu Âu nào khác được hưởng quyền này. Như vậy là Nguyễn Ánh đã ''cõng rắn cắn gà nhà'', mở đường cho chủ nghĩa đế quốc Pháp vào. Chẳng bao lâu sau đó, chế độ quân chủ Pháp bị cuộc Cách mạng 1789 lật đổ, đã không giữ được lời hứa giúp đỡ quân sự cho Nguyễn Ánh; Pigneau de Béhaine với sự giúp đỡ của một số thương nhân và phần tử phiêu lưu người Pháp đã cố gắng cung cấp cho Nguyễn Ánh một ít thiết bị và những huấn luyện viên quân sự. Không phải sự viện trợ này mà là những khó khăn trong nội bộ nhà Tây Sơn đã giúp Nguyễn Ánh đặt chân trở lại lên đất Việt Nam.
Hai người anh em của Nguyễn Huệ đều không có được những năng lực về quân sự cũng như tầm vóc lính trị của ông ta; do bất hòa nổ ra giữa ba anh em, Nguyễn Huệ lại đang bận ở miền Bắc, Nguyễn Ánh liền nhân cơ hội đánh chiếm Gia Định (1788). Sau một thời gian củng cố lực lượng, Nguyễn Ánh đẩy cuộc chiến công lên phía Bắc. Cái chết của Nguyễn Huệ năm 1792, của Nguyễn Nhạc năm 1793, việc con của Nguyễn Huệ là Quang Toàn lên nối ngôi khi mới vừa sáu tuổi, bấy nhiêu sự cố dẫn đến một loạt những bất hòa nội bộ làm suy yếu hẳn thế lực của Tây Sơn. Trong khi đó, Nguyễn Ánh thi hành một danh sách khôn khéo giúp ông ta củng cố dần vị thế của mình.
Hai bên địch thủ từ năm 1790 đến năm 1800, tiến hành một cuộc chiến không phân thẳng bại, chủ yếu tranh nhau thành phố Quy Nhơn cứ lần lượt hết lọt vào tay bên này lại rơi vào tay bên kia.
Sau năm 1800, Nguyễn ánh thắng thế hẳn và hướng cuộc tiến công ra phía Bắc. Năm 1801, trong khi quân Tây Sơn bị cầm chân xung quanh thành phố Quy Nhơn, quân của Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân và đặt đại bản doanh của mình ở đấy. Năm 1802, quân của Nguyễn Ánh đã sẵn sàng tiến ra phía Bắc để đánh chiếm đồng bằng sông Hồng. Ngày 1 tháng 6 năm 1802, trước khi xuất quân, Nguyễn Ánh xưng vua lấy tên hiệu là Gia Long. Quân Tây Sơn chỉ còn chống cự lẻ tẻ, ngày 20 tháng 7, Nguyễn Ánh kéo quân vào Thăng Long, mở đầu một triều đại mới, triều đại nhà Nguyễn.
Lực lượng đưa nhà Tây Sơn lên cầm quyền là phong trào khởi nghĩa rộng lớn của nông dân ở thể kỷ XVIII, có một số thương nhân góp phần tham gia nhưng không giữ vai trò hàng đầu. Nhờ có thiên tài quân sự và chính trị của Nguyễn Huệ, lại dựa trên sức mạnh vô cùng rộng lớn của giai cấp nông dân nổi dậy, cuộc khởi nghĩa đã giành được những thắng lợi nhanh chóng, thường là thần tốc. Dù nhấn mạnh đến bao nhiêu chăng nữa, người ta cũng không bao giờ nói hết được ý nghĩa quan trọng, vai trò lịch sử của Tây Sơn đã có công thống nhất lại đất nước bị chia cắt từ lâu bởi nạn phân tranh Trịnh - Nguyễn, cũng như niềm vinh quang của họ đã đánh thắng quân Xiêm và quân Thanh xâm lược, cứu nguy cho tổ quốc. Công lao của Tây Sơn còn là những cải cách kinh tế và văn hóa, khôi phục lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên, phong trào Tây Sơn đã bộc lộ những nhược điểm nằm ngay trong bản chất của nó. Giai cấp nông dân nổi dậy là một lực lượng lớn, nhưng không thể đảm đương nhiệm vụ đổi mới xã hội phong kiến đã bị xé nát tơi tả vì những mâu thuẫn không thể nào vượt qua. Việc chia của cải một cách bình quân không thế làm cơ sở cho một cương lĩnh cách mạng hay một chế độ mới. Xã hội Việt Nam ở thế kỷ XVIII thiếu một giai cấp xã hội có khả năng đề xướng một phương thức sản xuất mới, mang một hệ ý thức mới. Tầng lớp thương nhân, đúng là có tiến bộ hơn so với thế kỷ trước, tuy nhiên vẫn còn hoàn toàn là trứng nước, không thể đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo phong trào. Cả sự phát triển ngành thủ công lẫn sự manh nha những trao đổi hàng hóa với phương Tây từ thế kỷ XVII, đều đã không thể giúp phát triển một giai cấp tư sản đủ mạnh.
Kết quả phong trào sau một thời kỳ sôi sục, lại không thể nào không trở lại với thể chế phong kiến. Những kẻ “nổi loạn” đặt ra một chế độ quân chủ mới, ban bố một số cải cách nào đó nhưng không hề động đến chính ngay nền tảng của chế độ phong kiến, đến chế độ sở hữu ruộng đất. Tư tưởng phong kiến vẫn liên tục chi phối các lĩnh vực xã hội, chính trị và hệ ý thức. Sự phân chia quyền lực giữa ba anh em Tây Sơn, những bất hòa nội bộ tiếp theo đó cũng là những hậu quả của chủ nghĩa phong kiến đó. Bộ máy cai trị của Tây Sơn chỉ là tiếp tục bộ máy của những triều đại cũ với cùng những phương pháp cai trị cũ. Nguyễn Huệ qua đời, những cải cách đầu tiên đã phát huy hết tác dụng của chúng, triều đại mới nhanh chóng mất dần uy tín của mình. Các đại địa chủ của tỉnh Gia Định rồi đến các tỉnh khác ủng hộ Nguyễn Ánh, rốt cuộc đã lật đổ được nhà Tây Sơn để khôi phục chế độ phong kiến. Như vậy là nhờ những chiến thắng lớn do có thiên tài Nguyễn Huệ, tình trạng chia cắt Bắc Nam được xóa bỏ, các cuộc xâm lược của quân Xiêm và quân Thanh bị đẩy lùi. Thế nhưng, cái gia tài một đất nước thống nhất và độc lập có chủ quyền, sau cái chết của vị anh hùng, lại rơi vào tay địch thủ của ông ta là Nguyễn Ánh; ông ta lên ngôi năm 1802, sáng lập ra triều đại nhà Nguyễn, lấy tên hiệu là Gia Long.
Gia Long đóng đô ở Huế, thiết lập một chế độ quân chủ độc đoán với một bộ máy quan lại được tuyển lựa bằng thi cử, chọn đạo Khổng làm quốc giáo với những quy chế bảo thủ nhất và hình thức chủ nghĩa nhất. Các vua Nguyễn cho xây dựng hoàng thành và những lăng tẩm đại quy mô tại Huế và các vùng phụ cận. Công cuộc khai thác đồng bằng sông Mê Kông được tích cực tiến hành, thể hiện rõ nhất ở việc đào những con kênh lớn.
Tuy nhiên, chế độ đã không giải quyết được bất cứ một vấn đề lớn nào của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ vẫn thường xuyên bị khủng hoảng. Nông dân và các dân tộc thiểu số vẫn cứ liên tục nổi dậy, thương nghiệp vẫn bị bạc đãi, bộ máy quan lại thực sự bóp chết mọi ý đồ mong manh của tầng lớp thương nhân muốn phát triển lên.
Ngoại thương nằm trong tay độc quyền của Nhà nước, mà Nhà nước cũng chỉ bằng lòng với việc đặt mua hàng của những lái buôn người Trung Quốc và nước ngoài khác.