← Quay lại trang sách

Cuộc khủng hoảng của chế độ nhà Trịnh ở phía Bắc

Khủng hoảng ruộng đất

Tình trạng ruộng đất bị tước đoạt vào tay các địa chủ, hào lý và quan lại trầm trọng thêm rất nhiều, nhất là ở miền Bắc, lãnh địa của các chúa Trịnh, nơi các diện tích canh tác chỉ có hạn. Cùng với dân số tăng lên, cuộc khủng hoảng đã đạt đến mức độ chứa đầy hiểm họa. Năm 1711, chúa Trịnh buộc phải xuống chỉ '' cấm các gia đình đại quý tộc, quan lại và hương lý không được nhân cơ hội nông dân bị phá sản, mượn cớ mua ruộng đất để mở rộng cơ ngơi của mình ''. Quả vậy, những văn tự mua bán chẳng qua là thủ đoạn để hợp pháp hóa mọi sự tước đoạt ruộng đất của người tiểu nông. Ruộng công cũng không thoát khỏi lòng tham của địa chủ. Năm 1739, Phủ Chúa đành phải thừa nhận: '' Nông dân không còn có gì để sống ''.

Tình hình trở nên đáng lo ngại đến mức năm 1740, một chúa Trịnh đã có dự án quốc hữu hóa hết tất cả ruộng đất để phân phối cho dân cư canh tác và nộp tô cho Nhà nước. Dự án vấp phải sự phản đối của toàn thể bộ máy quan lại và giai cấp địa chủ, đành phải nhanh chóng bị chôn vùi.

Một trong những triệu chứng rõ rệt nhất của cuộc khủng hoảng ruộng đất này là số vụ khiếu kiện ruộng đất bị tước đoạt đã tăng vọt, nhưng người nông dân bị tước mất ruộng phải đến cửa quan lại gặp trăm điều khó dễ, phải đưa hối lộ, nhưng thường rốt cuộc vẫn là tiền mất tật mang. Các khiếu nại lên đến tận phủ Chúa nhiều đến nỗi năm 1723, chúa Trịnh buộc phải cho thiết lập ngay tại cổng phủ cả một tòa án tối cao xét xử chung thẩm. Một báo cáo thanh tra năm 1718, lưu ý: '' Trong các thôn xã, bọn hào lý dùng trăm phương nghìn kế, hoành hành độc đoán cướp tài sản của người khác để làm giàu, áp bức người nghèo, khinh rẻ kẻ dốt nát, tìm đủ mọi cớ để vu oan và kiện cáo người ta. Việc phán xử dù có đúng cũng chỉ vô ích, chúng khiếu nại một lần, hai lần, ba lần. Người nghèo không còn đủ sức để theo kiện, đến nỗi cả những người khá giả cũng bị khuynh gia bại sản ''.

Cũng bản báo cáo này đã kể ra vô số những thủ đoạn của bọn hào lý để bóc lột của cải của người nghèo, chiếm đoạt ruộng công, gây năm bè bảy mối. Như vậy là bộ máy hành chính ở nông thôn hoàn toàn thối nát, nhưng Nhà nước đành bất lực. Bản thân Nhà nước cũng không còn đủ sức để bảo trì đúng mức cần thiết những công trình trị thủy lớn, đến nỗi chỉ cần một thiên tai nhỏ nhất đôi khi cũng đủ gây nên những trận đói lớn. Nông dân phải bỏ làng xóm, lang thang để kiếm cái ăn và chết đói hàng nghìn ngay trên các nẻo đường. Nhà nước chỉ đủ sức làm các cuộc phát chẩn, thật sự là không thấm vào đâu. Trong Niên giám Cương mục kể lại như sau trận đói năm 1735: “ Nạn trộm cướp sinh sôi nảy nở, nhất là ở Hải Dương. Nông dân bỏ hết mọi thứ trồng trọt. Tất cả các kho lương thực ở các làng đều bị vét sạch, trừ ở Sơn Nam. Người ta bồng bế con cái đi lang thang để kiếm chút cơm ăn. Giá gạo tăng vọt, một trăm đồng tiền không đủ để trả một bữa ăn. Người ta ăn rau, ăn cỏ, ăn thịt chuột, thịt rắn. Người chết nằm la liệt dọc các con đường ”.

Số nông dân bị phá sản, phải bỏ làng lang thang khắp xứ tăng lên đến mức năm 1730, chúa Trịnh buộc phải giao cho mười hai vị đại thần trong triều nhiệm vụ phải đưa họ trở về nhà nhưng chỉ uổng công vô ích. Cuộc kiểm kê dân số năm 1730 cho biết có 1730 xã bị sa vào tình trạng đặc biệt nghiêm trọng. Chính cái khôn nông dân bị khuynh gia bại sản, buộc phải lang thang trên các nẻo đường sẽ là đội quân chủ lực của những cuộc khởi nghĩa lớn trong thế kỷ XVIII.

Khủng hoảng chính trị và hành chính

Nếu bộ máy cai trị ở các thôn xã tỏ ra tham lam và tàn ác thì bọn quan lại trong bộ máy quan liêu và phủ Chúa lại đắm mình trong tham nhũng và hoang dâm. Việc xây dựng những cung điện chùa chiền và những trò hoan lạc xa hoa của phủ Chúa làm hao mòn ngân sách. Sưu thuế ngày càng cao, phu phen tạp dịch ngày càng nhiều. Năm 1718, một viên ngự sử tâu trình về cảnh khốn cùng của nhân dân và đề nghị: '' Cấm mọi sự lãng phí, ngừng mọi công trình xây dựng và sửa chữa các cung đình, giảm bớt nhũng cuộc du lãm của phủ Chúa và những chuyến hành hạ của quan lại ''.

Quan ngự sử được Chúa ban khen, nhưng những lời khuyên của ông ta thì bị bỏ xó. Các chúa Trịnh cho bố trí tôn tạo rất nhiều danh lam thắng cảnh, xây dựng, nhiều đền chùa, dinh thự, bắt nhân dân phải còng lưng đóng góp thuế nặng, sưu cao. Các nghi lễ ở phủ Chúa diễn ra trong cảnh rất mực huy hoàng, tráng lệ. Để đáp ứng những chi tiêu đó, các chúa Trịnh ở thế kỷ XVIII, với sự giúp đỡ của một viên quan tận tụy là Nguyễn Công Hạng, đặt ra một hệ thông thuế khóa mới, gộp tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, không bỏ sót bất cứ một thứ gì khỏi sự kiểm soát của nhà nước. Nguyên tắc của cuộc cải cách thuế khóa năm 1721, được diễn đạt như sau: '' Trước đây, dựa trên thu để chi, nay sẽ dựa tiền chi để quy định thu ''.

Việc mua quan bán tước đã giáng cho thể chế quan lại một đòn trí mạng. Thế là đồng tiền bắt đầu công việc của nó là gặm mòn tòa lâu đài phong kiến: bất cứ ai hễ có tiền trả là mua được quan tước và sự thăng quan tiến chức được tiền tệ hóa. Như vậy, có thể nói là hành vi hối lộ đã trở thành hợp pháp và ông quan cứ việc đè vào dân đen để thu lại những gì mình đã phải bỏ ra và đế làm giàu. Có những đạo dụ đã được ban bố để những lại tệ nạn này, nhưng vô hiệu.

Trong khi các chúa Trình đắm mình vào trác táng và xa hoa thì các phe nhóm đua nhau mọc lăn ở phủ Chúa. Những âm mưu cung đình, trong đó bọn hoạn quan và các ái phi của nhà Chúa giữ một vai trò quan trọng, khiên cho tình hình càng không ổn định. Những ông quan điểm thiết bị loại trừ và nhiều lần những đơn vị đặc biệt của quân đội nổi loạn đã hoành hành, tự hạng tự tác truất quan phế chúa ở ngay chốn kinh thành đã tạo cơ hội dẫn đến nạn vô Chính phủ.

Những cuộc nổi đậy của nông dân dưới thời nhà Trịnh

Các cuộc nổi dậy của nông dân còn lẻ tẻ ở thế kỷ XVII, sang thế kỷ XVIII, lan rộng và lớn mạnh dần. Ở các miền núi, những nhóm dân tộc thiểu số nổi dậy dưới sự lãnh đạo của những thủ lĩnh địa phương. Ngay từ năm 1715, sử biên niên cho biết ở các tỉnh đồng bằng những toán ''phỉ'' đã hoạt động nhiều nơi. Năm 1737, chúa Trịnh buộc phải cho đặt ở hầu khắp mọi nơi những vọng gác có nhiệm vụ đốt lửa để báo hiệu về hành tung của những nhóm nổi loạn ngày càng đông trong nhiều vùng. Cuộc phiến động mang hình thức chính trị với những tài liệu viết lưu hành bí mật, những khẩu hiệu, những tin thất thiệt được tung ra nhằm làm mất uy tín của chế độ. Những bài viết được phát tán dưới dạng những câu chuyện kể, những truyện tiếu lâm, qua đó các tác giả đả kích bộ máy chính quyền. Năm 1718, phủ Chúa ra lệnh cấm in và lưu hành những tài liệu viết này, cho bắt và đem đốt đi. Nhiều biện pháp an ninh được ban hành, đặc biệt là thành lập trong mỗi làng một nhóm bảo vệ được lựa chọn trong số các hương lý và chỉ huy binh lính ở các tỉnh. Năm 1721 rồi năm 1727, quân đội được tăng cường. Tuy nhiên, tất cả những biện pháp này đều vô hiệu, không sao ngăn nổi các cuộc nổi dậy của nông dân không ngừng nối tiếp nhau nổ ra. Chỉ xin nêu sau đây những cuộc nổi loạn quan trọng nhất.

Năm 1737, dưới sự lãnh đạo của một nhà sư, tên là Nguyễn Dương Hưng, hàng nghìn nông dân chiếm dẫy núi Tam Đảo ở phía tây bắc kinh đô, làm cho dân chúng ở đây hoảng loạn. Cuộc nổi dậy đã bị đàn áp dữ dội nhưng chẳng được bao lâu, trong vùng núi của tỉnh Thanh Hóa, một hậu duệ của nhà Lê và Lê Duy Mật lại cầm đầu một cuộc nổi dậy lôi cuốn nông dân vùng châu thổ và cả dân miền núi.

Năm 1739, có thể nói và các trung tâm khởi nghĩa mọc ra ở tất cả các tỉnh đặc biệt là trong vùng châu thổ sông Hồng. Sử biên niên Cương mục kể lại rằng dân nghèo tập hợp lại '' nơi thì hàng nghìn, thậm chí có nơi hàng vạn hoặc hàng chục vạn người, bao vây các lỵ sở, phong trào không sao ngăn cản được ''. Những tổ chức khởi nghĩa ở các tỉnh liên lạc với nhau để phối hợp hành động, nhưng phần lớn các trường hợp những cuộc nổi dậy vẫn mang tính chất địa phương.

Các chúa Trịnh liền cho thành lập những đội hương vệ, cứ trong danh sách mười người chọn lấy hai, được trang bị vũ khí để bảo vệ các làng xã. Nhưng các hương vệ lại thường chạy sang hàng ngũ quân khởi nghĩa và chẳng bao lâu biện pháp này đành phải bãi bỏ. Năm 1740, nhà Trịnh cho tăng cường những đơn vị đặc biệt của quân đội. Đội quân này buộc phải tiến hành những cuộc càn quét liên miên, bởi cuộc nổi dậy này vừa bị đập tắt thì một cuộc khác lại nổ ra. Ở tỉnh Hải Dương, kể cả sau khi các thủ lĩnh Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ chết năm 1741, quân của họ đã tập hợp lại, khi ẩn khi hiện trong các làng xóm, các đầm lầy phủ đầy lau lách.

Trong các vùng trung du và thượng du ở Lạng Sơn và Bắc Giang, ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, trong vùng núi Thanh Hóa, những nhóm dân tộc thiểu số, đôi khi liên kết với quân nổi dậy ở đồng bằng, nổi lên chống lại nhà Trịnh. Tuy nhiên, trung tâm chủ yếu của phong trào khởi nghĩa bao giờ cũng là đồng bằng. Bốn trong số những cuộc khởi nghĩa nông dân này sẽ phát triển đến một quy mô to lớn đặc biệt và kéo dài trong nhiều năm.

Xuất phát từ tỉnh Sơn Tây, phong trào do Nguyễn Danh Phương lãnh đạo, khởi đầu năm 1740 và mãi đến năm 1751, mới tan rã. Quân khởi nghĩa đã kiểm soát được các tỉnh Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, một phần của tỉnh Sơn Tây, họ thu thuế các lâm sản từ miền thượng du trở xuống và trong vòng mười một năm “ đã dựng nên một nhà nước thục sự đương đầu với triều đình Thăng Long ”. Quân Trịnh sau nhiều lần thất bại, năm 1751, chúa Trịnh Doanh phải thân chinh chỉ huy một đội quân hùng mạnh mới dẹp tan được cuộc khởi nghĩa sau những trận đánh quyệt liệt.

Ở tỉnh Hải Dương, sau khi lãnh tự nông dân Nguyễn Cừ thất bại, năm 1741, phó tướng của ông này là Nguyễn Hữu Cầu lên thay, dấy lên một trong những cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất của thế kỷ. Là một nhà nho có tài, chán ghét những cuộc thi cử để ra làm quan, ông ta tiến công vào những nhà giàu để lấy của cải chia cho dân nghèo, tự xưng là “ Đại tướng quân bảo vệ dân ” đặt đại bản doanh ở các vùng duyên hải Đồ Sơn, Vân Đồn, chiếm giữ tỉnh Kiến An, tổ chức một hạm đội nhỏ gồm những chiến thuyền nhẹ. Là một nhà chiến lược tuyệt vời, với những đội quân cực kỳ cơ động, thiện chiến cả trên bộ lẫn trên sông, năm 1744, Nguyễn Hữu Cầu đã giáng cho quân Trịnh một đòn đại bại, gieo rắc nỗi kinh hoàng đến tận kinh đô. Ảnh hưởng của Nguyễn Hữu Cầu lan sang đến tỉnh Kinh Bắc và tên tuổi Nguyễn Hữu Cầu đã gây nên một niềm phấn khởi làm rung động lòng người trong đông đảo quần chúng nông dân, khiến bọn quân quan của họ Trịnh khiếp sợ. Các chúa Trịnh buộc phải điều động những đội quân mạnh nhất và những viên tướng giỏi nhất để chống Nguyễn Hữu Cầu. Mỗi lần bị thất bại, ông ta nhanh chóng tổ chức lại quân đội của mình với hàng nghìn nông dân kéo đến tập họp dưới cờ với khẩu hiệu ''Lấy của nhà giầu để chia cho người nghèo'', do đó mà có huyền thoại ông ta là vị tướng quân bất khả chiến bại. Bị áp đảo vì số quân địch quá đông, năm 1751, Nguyễn Hữu Cầu bị bắt và hành quyết. Trong những ngày bị tù, ông đã làm bài thơ ''Chim lồng'' bài ca về ước vọng của mình muốn trở thành một con người tự do.

Phong trào do Hoàng Công Chất lãnh đạo phát triển trong tỉnh Sơn Nam, ở miền hạ lưu của vùng châu thổ, kéo dài từ năm 1739 đến năm 1769; chủ yếu dùng chiến thuật đánh du kích, lực lượng chiến đấu thoắt tập trung, thoắt phân tán một cách mau lẹ, trong nhiều năm trời, Hoàng Công Chất đã buộc quân Trịnh phải chạy theo đến hụt hơi. Năm 1751, trong khi quân Trịnh đang triển khai cuộc tiến công, Hoàng Công Chất rút vào vùng núi của tỉnh Thanh Hóa, rồi miền Tây Bắc của Bắc Bộ. Tại đây năm 1761, ông lập các cứ điểm dọc bờ sông Đà. Năm 1768, ông qua đời và người con trai của ông bị quân Trịnh đánh bại, phải rút sang lánh nạn trong tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).

Phong trào do Lê Duy Mật lãnh đạo cũng tồn tại lâu dài, từ năm 1738 đến năm 1779. Thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Lê, Duy Mật đã náu mình trong vùng núi của tỉnh Thanh Hóa. Tại đó, dựa vào nông dân nghèo và người thuộc dân tộc thiểu số, ông ta đã lập được căn cứ đầu tiên. Trong lời tuyên cáo với nhân dân Lê Duy Mật xác định mục tiêu của phong trào là khôi phục nhà Lê, truất ngôi của bọn thoán nghịch họ Trịnh tham lam và tàn bạo. Sau năm 1740, quân của Lê Duy Mật bám sát một phần lớn vùng núi thuộc các tỉnh Ninh Bình, Sơn Tây lan sang vùng đồng bằng Thanh Hóa, rồi tiếp đó, sau năm 1752, vùng núi của tỉnh Nghệ An. Tại các vùng này, ông giúp nông dân tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, xây dựng những công trình trị thủy và tổ chức những xưởng làm nông cụ. Năm 1763, phạm vi của Lê Duy Mật mở rộng đến tận Trấn Ninh. Chỉ mãi đến năm 1769, quân Trịnh mới có thể thực sự mở cuộc phản công. Các cuộc chiến đấu kéo dài mãi đến năm 1770, Lê Duy Mật bị một tên tùy tướng phản bội, đã tự sát.

Sau khi Lê Duy Mật chết, các phong trào lớn của nông dân chống Trịnh tắt lịm dần, nhưng chế độ nhà Trịnh đã bị giáng một đòn trí mạng. Nhược điểm lớn của các phong trào này chủ yếu là tình trạng phân tán và thiếu tổ chức, trong khi phải đương đầu với một nhà nước tập trung nắm trong tay một quân đội nhà nghề và một bộ máy cai trị đã được vận hành thành thạo. Một đôi lúc đã từng có sự phối hợp giữa các phong trào, nhưng chưa bao giờ có được một tổ chức trên quy mô cả nước. Đặc điểm của các cuộc nổi dậy là như thế, nổ ra một cách tự phát và bao giờ cũng mang tính địa phương. Cùng với nông dân ở thế kỷ XVIII, đã có những thợ thủ công bị phá sản, những thợ mỏ, những thương nhân bất mãn. Sự phát triển của nghề thủ công và thương nghiệp, những trao đổi hàng hóa với nước ngoài đã gần như tạo nên thị trường dân tộc, nhưng thực ra đã không có một giai cấp tư sản đích thực để có thể tự tay nắm lấy cuộc nổi dậy lật đổ chế độ phong kiến và xây dựng một xã hội mới. Vai trò lãnh đạo các phong trào nông dân trong phần lớn các trường hợp vẫn ở trong tay những phần tử xuất thân từ chế độ phong kiến. Những nhà nho bất đồng chính kiến, những tiểu quan lại, những nhà sư, là những người không thể nào hoạch định được một cương lĩnh chính xác cũng như một cơ cấu tổ chức mới.

Nhà Trịnh đã buộc phải có một vài nhân nhượng: giảm thuế má và sưu dịch, nhưng họ đã đương đầu với các cuộc nổi dậy bằng cách tăng cường quân đội của mình, nhất là bằng những đơn vị đặc biệt. Tuy nhiên, nếu những đơn vị này đã giúp họ đàn áp tàn bạo nông dân nổi dậy thì sau khi chiến thắng, chính chúng lại trở thành mối nguy cơ thường xuyên đe dọa chế độ nhà Trịnh.

Chế độ nhà Trịnh vào cuối thế kỷ XVIII

Nhà Trịnh đã đàn áp được các cuộc nổi dậy, nhưng không sao kìm hãm được việc chiếm đoạt ruộng đất và cũng không ngăn nổi quá trình suy tàn của chế độ. Các chiếu chỉ từ phủ Chúa cũng như những điều trần can gián của các quan ngự sử, những dự án cải cách mà những viên quan biết lo lắng đến việc chung tấu trình lên, tất cả đều chỉ uổng công vô ích. Trong suốt những năm 70 và 80 của thế kỷ, các trận đói xảy ra liên miên, hết trận này đến trận khác.

Năm 1767, Trịnh Sâm lên ngôi chúa. Trịnh Sâm là một kẻ chơi bời trác táng và hư hỏng, quyền hành chuyển vào tay ái phi Đặng Thị Huệ và gia đình của bà ta. Triều đình nhà Chúa chia thành hai phe kình địch nhau, phe của thế tử và phe của ái phi muốn đưa con trai mình lên ngôi chúa. Chính người con trai này đã lên ngôi khi Trịnh Sâm chết năm 1782. Chúa đăng quang khi mới 6 tuổi và Hoàng Đình Bảo, nhân tình của Đặng Thị Huệ, mới là kẻ nắm thực quyền. Cuối năm 1782, quân đội nổi loạn giết chết Hoàng Đình Bảo, khôi phục ngôi chúa cho thế tử, nhưng từ đó các binh sĩ của đơn vị đặc biệt buộc triều đình nhà Chúa phải tuân theo ý của họ, cướp bóc nhân dân, hạ bệ các vương hầu và khanh tướng, giết chết những ai dám chống lại hành động của mình. Nông dân lại nổi dậy, nhưng những cuộc bạo động đó không đạt được quy mô như trước nữa. Vào cuối thế kỷ XVIII, chế độ nhà Trịnh đã ở bên bờ sụp đổ.