← Quay lại trang sách

Quốc gia Champa

Thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, khi quân đội của đế quốc Trung Hoa áp đặt nền thống trị của mình tại Việt Nam, ở phía nam vĩ tuyến 18, cùng sống với những thành phần Nguyên - Việt (Proto - Vietnamien) có nhiều tộc người Mã Lại - Polinêdieng tập hợp nhau lại thành những công quốc tự trị. Những tộc người sống trên vùng hiện nay là lãnh thổ các tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định và Quảng Ngãi gọi là nhóm Cây dừa (tiếng Phạn: Narikelavamsa) cũng phải chịu sự đô hộ của Trung Quốc, lãnh thổ của họ trở thành quận Nhật Nam bị sáp nhập vào đế quốc Trung Hoa của nhà Hán.

Xa hơn về phía Nam là nhóm Cây cau (tiếng Phạn: Kramukavamsa) từ thế kỷ thứ nhất, đã lập nên một vương quốc tự trị về sau lấy tên là Pandaranga, có lãnh thổ trải dài giữa đèo Cù Mông và châu thổ sông Đồng Nai. Đứng trước sự đô hộ và đe dọa của đế quốc Trung Hoa, các nhóm người Mã Lai - Polinêđiêng đã nhiều lần chung sức với người Việt Nam để chống lại kẻ thù chung. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra thường là có phối hợp với những cuộc khởi nghĩa của các nhóm người Nguyên - Việt, nhất là ở những vùng cực Nam của đất Việt Nam.

Vào cuối thế kỷ thứ hai, Trung Quốc lâm vào tình trạng rối loạn nghiêm trọng, dân cư các vùng lãnh thổ ở phía Nam rối loạn nghiêm trọng, dân cư các vùng lãnh thổ ở phía Nam Đèo Hải Vân thuộc nhóm Cây dừa nổi dậy giành quyền tự chủ và lập thành một vương quốc trải dài từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông (Quảng Nam, Đà Nẵng và Bình Định ngày nay) được các sử gia Trung Quốc gọi là Lâm ấp. Đến thế kỷ thứ tư, quân của Lâm Ấp tiến lên phía bắc giết chết viên quan người Trung Quốc cai trị quận Nhật Nam. Lãnh thổ của Lâm Ấp được mở rộng đến tận Đèo Ngang (vĩ tuyến 18). Chỉ đến thế kỷ thứ sáu, mới thấy xuất hiện trên các bia đá của vương quốc này danh từ Champa. Như vậy là ở thế kỷ đó đã tồn tại hai vương quốc, vương quốc Champa phía bắc và vương quốc Champa phía nam (là Pandaranga cũ) có lẽ là những đồng minh của nhau, bởi nhân dân của hai nước chủ yếu đều thuộc giống người Mã Lai - Polinêdieng.

Người ta có thể cho rằng sự thống nhất của vương quốc đã được thực hiện dưới triều vua Bhadravarman I, lãnh thổ Champa lúc bấy giờ mở rộng đến tận Đèo Ngang (vĩ tuyến 18). Tuy nhiên phần phía bắc của Champa thường hay bị Trung Quốc xâm chiếm, mỗi khi ở tại nước này, một triều đại giữ vững được thế ổn định trong một thời gian dài và mỗi khi Trung Quốc sa vào loạn lạc thì Champa lại nhân cơ hội đánh chiếm lại lãnh thổ của mình. Đã nhiều lần, quân Trung Quốc tiến đánh kinh đô của Champa, phá hủy đền đài cung điện, cướp đem đi nhiều báu vật. Tuy nhiên, lần nào người Chăm cũng chống cự quyết liệt, buộc quân Trung Quốc phải rút lui.

Dưới triều đại Gangaraja từ thế kỷ thứ sáu đến thế kỷ thứ tám, gồm chín đời vua nối tiếp, kinh đô đặt ở Sinhapura (thành phố Sư Tử) là địa điểm của thị trấn Trà Kiệu trên bờ sông Thu Bồn ở phía tây nam Đà Nẵng hiện nay. Cách Sinhapura chừng mười hai cây số là tổ hợp thánh địa Mỹ Sơn gồm nhiều ngôi đền thờ các vị thần Ấn Độ giáo đã được xây dựng qua nhiều thời kỳ.

Đó là thời kỳ ưu thế của nhóm Cây dừa của bắc Champa, với sức mạnh dựa vào những nguồn lực của vùng đất ruộng Quảng Nam, Đà Nẵng hiện nay, đông dân hơn so với các đồng bằng ở xa hơn về phía nam. Những bất hòa và xung đột giữa hai miền bắc và nam Champa rõ ràng là một nhân tố làm suy yếu vương quốc này, đi đôi với sự uy hiếp đến từ phía bắc do nạn bành trướng của đế chế Trung Hoa đã đứng chân được trên lãnh thổ Việt Nam thời đó.

Tuy nhiên, người ta khó biết được chính xác những lý do vì sao ở các thế kỷ tám và chín, nước Champa đã buộc phải dời đô xuống phía nam để thiết lập một kinh đô mới lấy tên là Ponagar trên địa điểm của thành phố Nha Trang hiện nay. Tuy nhiên, vương triều định đô ở phía nam vẫn không vì thế mà không khẳng định quyền lực của mình đối với phần phía bắc của đất nước.

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ chín cho đến cuối thế kỷ thứ X, các nhóm cầm đầu ở phía bắc giành lại ưu thế của họ và kinh đô được dời đến Indrapura (thành phố của thần Indra) cách kinh đô cũ Sinhapura (tên Việt Nam của địa phương này là Đông Dương) 15 cây số.

Từ thế kỷ thứ XII, Champa đã lấy đạo Phật làm quốc giáo nhưng không vì thế mà từ bỏ Ấn Độ giáo, các cung điện của nhà vua và chùa chiền Phật giáo cùng tồn tại bên nhau. Nước Champa bước vào một thời kỳ hưng thịnh, biên niên sử Trung Quốc ghi lại ba cuộc tấn công của quân Champa đánh vào các lãnh thố dưới quyền thông trị của Trung Quốc trong các năm 815, 862 và 865. Ở phía nam, vào những năm 889 - 890, không những Champa đã đẩy lùi một cuộc xâm lược của người Khơmer đến từ vương quốc Tchen-la, mà còn truy kích quân địch đến tận lãnh thổ nước họ, gây cho họ nhiều thiệt hại nghiêm trọng.

Lãnh thổ Champa gồm một dãy những đồng bằng nhỏ hẹp nằm dọc theo bờ biển giữa Biển Đông và dãy Trường Sơn và các cao nguyên thuộc Tây Nguyên. Những dãy núi chạy ngang cắt đất nước thành từng đoạn và việc giao thương liên lạc từ tỉnh này sang tỉnh khác là có phần khó khăn. Tuy nhiên lãnh thổ này, mặc dù các đồng bằng chật hẹp, có lợi thế bao gồm một dải duyên hải quan trọng và một vùng núi giàu tài nguyên thực vật và khoáng sản. Đặc biệt, vàng khai thác từ một số mỏ đã được dựng để dựng nhiều bức tượng của các thần Ấn Độ giáo và tượng Phật làm cho những khách nước ngoài đến thăm kinh ngạc, thán phục, nhưng cũng khêu gợi lòng tham vua chúa những nước lân cận, cũng như của các viên thứ sử Trung Quốc ở đất Giao Chỉ. Mặt khác ở phía nam vĩ tuyên 16, bên kia Đèo Hải Vân, nhiệt độ nóng ẩm đều đặn quanh năm thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa. Như vậy khai khoáng, đánh cá biển, làm muối, khai thác lâm sản và nhất là nông nghiệp đã tạo thành một nền tảng vững chắc cho vương quốc này. Trong điều kiện an ninh chính trị được đảm bảo, người Chăm đã biết cách trồng lúa một năm hai vụ và những vết tích còn lại chứng tỏ đã từng tồn tại ở đây một hệ thống thủy nông còn hoàn thiện hơn so với hệ thống thủy nông của nước Việt Nam cùng thời (hệ thống thủy nông của đồng bằng sông Hồng). Người Chăm đã biết chọn một giống lúa ngắn hạn, chín trong vòng ba tháng, giống lúa này sau đó đã được nhập vào vùng Hoa Nam vào thế kỷ thứ XI theo một chỉ dụ của hoàng đế Trung Hoa lệnh cho tất cả các tỉnh miền Nam Trung Quốc phải trồng giống lúa này.

Cây dừa và cây cau là hai nguồn lợi có tầm quan trọng quyết định không những trong đời sông kinh tế mà cả đời sống tôn giáo của nước này, hai thị tộc quan trọng nhất của vương quốc mang tên hai loại cây này. Xa hơn nữa về phía nam, càng gần lưu vực sông Đồng Nai, khí hậu càng khô, cây cối càng ít tốt tươi hơn, nhưng bờ biển lại thuận lợi cho sự phát triển nghề đánh cá biển và làm ruộng muối.

Chính dựa trên nền tảng một nền kinh tế tương đối phát triển mà người Chăm đã có thể xây dựng những công trình kiến trúc rất đặc sắc. Những ngôi đền hình tháp xây trên những ngọn đồi mà ngày nay người ta vẫn nhìn thấy dọc theo con đường bộ chạy dọc bờ biển của miền Trung Việt Nam, được dùng cho việc thờ cúng những vị thần Ấn Độ giáo hay Đức Phật, các ngôi đền đều có hình bốn góc và được xây hoàn toàn bằng gạch nung kết liền với nhau bằng một chất dính mà cho đến ngày nay người ta vẫn chưa khám phá được bí quyết làm ra nó. Các ngôi đền đều có đỉnh là một tháp nhỏ hình nón, mặt trong và mặt ngoài của các bức tường đều được chạm trổ rất sinh động, chứng tỏ một trình độ nghệ thuật tinh tế. Các nhân vật và đề tài đều được rút ra từ các huyền thoại Ấn Độ nhưng được xử lý theo phong cách các dân tộc Chăm. Nền nghệ thuật này đã có ảnh hưởng rõ rệt đối với nghệ thuật Việt Nam, âm nhạc Chăm cũng vậy.

Những tư liệu và di tích còn lại gợi cho người ta nghĩ rằng, xã hội Chăm đã được đặt dưới một chế độ quân chủ chuyên chế quyền lực của nhà vua dựa trên cơ sở quyền sở hữu đối với tất cả mọi đất đai trong nước. Các viên chức của nhà vua không lĩnh lương và được cấp đất cùng với quyền được thu tô của những nông dân sông trên đất đó. Đất cũng được cấp cả cho các đền thờ và trong trường hợp này những nông dân phải nộp một phần thu hoạch cho việc thờ cúng đều được miễn thuế và sưu dịch Giới quý tộc lãnh đạo bao gồm các thành viên của hoàng tộc các quan đại thần và đại giáo chủ.

Nông dân sống tập trung trong những công xã nông thôn, là lực lượng lao động chủ yếu. Cũng có những gia nô của những gia đình đại quý tộc, những nô lệ chuyên về âm nhạc và múa, hoặc lao động xây dựng các cung điện và đền đài. Khó biết được một cách chính xác vai trò của các nô lệ trong nền kinh tế, căn cứ vào số lượng các cung điện của nhà vua và đền đài tôn giáo đã được xây dựng, người ta có thể nghĩ rằng số lượng nô lệ có lẽ là khá lớn.

Người ta cũng không biết được bộ máy quyền lực của tầng lớp quý tộc và các viên chức của nhà vua đã vận hành như thế nào. Tuy nhiên, căn cứ vào mô hình Ấn Độ là nơi ''xuất xứ'' của nước Chămpa, có thể nghĩ rằng bộ máy quyền lực ở đây có phần lỏng lẻo và nguyên tắc quyền lực tuyệt đối của nhà vua đã không ngăn cản được các thị tộc tranh giành kình địch nhau trong cuộc chạy đua nhằm giành quyền lực tối cao. Nhất là quyền lực trung ương lại không thể nào thực hiện một cách dễ dàng trên một lãnh thổ manh mún về địa lý, đường giao thông liên lạc khó khăn. Các thị tộc ở phía bắc và phía nam không ngừng xâu xé lẫn nhau. Đến khi nước Việt Nam thời trước, bắt đầu từ thế kỷ XV, áp dụng chế độ quân chủ trung ương tập quyền với một tổ chức quan lại được đào tạo theo Khổng giáo và được tuyển chọn bằng thi cử, xây dựng cho đất nước một bộ máy cai trị chặt chẽ, xóa bỏ chế độ phong ấp và nông nô phong kiến, thì Chămpa bị lâm vào thế yếu so với nước láng giềng phía bắc của mình. Đất nước của người Chăm bị kẹp giữa hai gọng kìm, vì từ phía nam cũng phải chịu sức ép của vương quốc Khơmer đang hên đà bành trướng từ thế kỷ thứ IX.

Nhà vua - kẻ nắm quyền lực dân sự tối cao, đồng thời cũng còn là hiện thân của thần Shiva chừng nào đạo Bàlamôn còn ngự trị, và sau đó là hiện thân của Đức Phật. Có những giáo sĩ Bàlamôn người Ấn Độ ở liền tại triều đình để làm cố vấn cho nhà vua. Sau thế kỷ thứ bảy, việc chấp nhận đạo Phật đã không kèm theo việc trục xuất đạo Bàlamôn và hai tôn giáo này đã cùng nhau tồn tại. Căn cứ vào những diện tích đất đai được dành cho việc thờ cúng và số lượng những công trình tôn giáo đã được xây dựng, người ta có thể nghĩ rằng nhân dân Chăm đã phải bỏ vào đấy biết bao nhiêu công sức, việc thờ cúng đã thật sự làm cạn kiệt những nguồn vật lực và nhân lực của đất nước này. Đó lại là một nhân tố khác nữa làm suy yếu Chămpa.