Vương quốc Khmer và Angkor huy hoàng tráng lệ
Ở thế kỷ thứ X, khi đất nước Việt Nam xưa trở thành một nước độc lập với quốc hiệu là Đại Việt, thì ở đồng bằng sông Mê Kông có một vương quốc đã được thành lập và đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Đó là vương quốc Kambua mà các sử gia Trung Quốc gọi là Tchen-la (Chân Lạp). Đồng bằng vùng châu thổ sông Mê Kông, một trong những châu thổ rộng nhất ở châu Á trải rộng từ vùng Biển Hồ đến tận bờ biển và người ta thường phân biệt vùng Lục Chân Lạp là lãnh thổ hiện nay của nước Campuchia và vùng Thủy Chân Lạp ở phía các cửa của sông Mê Kông. Thực tế, cho đến thế kỷ XVII, phần thấp của đồng bằng này chưa được phù sa hoàn toàn bồi đắp, vẫn còn là những đầm lầy rộng và những rừng rậm hầu như không có người ở. Vùng này phải chịu sự thống trị của người Gia-va cho đến ngày nhà vua Khmer là Jayavarman II lên ngôi ở thế kỷ thứ chín, đánh đuổi được người Gia-va và thống nhất đất nước, lập nên vương quốc Angkor nổi tiếng; tại đây cũng như ở Chămpa, ảnh hưởng chi phối thuộc về văn minh Ấn Độ.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIII, vương quyền Khmer đóng ở Angkor đã lập nên được một chế độ vững vàng ổn định, mà dấu ấn đặc biệt là những công trình thủy nông lớn và nhất là vô số cung điện thờ và đền đài. Những tên Angkor Vat và Angkor Thom đã được nhiều người biết, chúng tôi thấy không cần phải nói đến nhiều ở đây. Để mô tả sự lộng lẫy xa hoa của chế độ vương quyền này, mà những tập hợp đền đài Angkor có thể cho ta một ý niệm khá chính xác, chúng tôi trích dẫn ở đây để làm bằng những điều mắt thấy tai nghe của một nhân chứng là Zhu Ta Quang, thành viên trong một đoàn sứ giả Trung Quốc đến Angkor năm 1296:
“ Khi nhà vua ra, có quân lính đi đầu đoàn hộ tống, tiếp đến là cờ, phướn, âm nhạc. Đoàn cung nữ đông từ ba đến năm trăm người, tóc tết bằng những mảnh vải thêu hoa, tay cầm nến đi thành một đoàn, ngay giữa ban ngày, nên vẫn được thắp sáng. Tiếp đến là những nữ tỳ trong cung đợi những đồ dùng của nhà vua bằng vàng và bạc cùng với một loại đồ trang sức, tất cả đều mang những kiểu dáng rất đặc biệt và tôi cũng không thể biết dùng để làm gì. Tiếp đến là những cung nữ tay cầm giáo và khiên, đó là đội cận vệ riêng của nhà vua, những cô gái này cũng đi thành một đội riêng. Theo sau là những chiếc xe dê kéo, ngựa kéo, xe này cũng được trang trí bằng vàng. Các vĩ đại thần, các vương tôn công tử đều cưỡi voi, từ xa người ta đã thấy đi phía trước họ vô số những lọng màu đỏ. Đi sau họ là những bà vợ và nàng hầu của nhà vua, người ngồi võng, kẻ ngồi xe do súc vật kéo, hoặc cưỡi ngựa, cưỡi voi. Chắc chắn có đến hơn một trăm chiếc lọng dát vàng che cho họ. Đi sau là quốc vương đứng trên mình voi, tay cầm gươm báu. Đôi ngà của con voi cũng được bọc trong bao bằng vàng. Có đến hơn hai mươi chiếc lọng màu trắng, lốm đốm dát vàng, các cán lọng đều bằng vàng. Rất nhiều voi xúm xít đi xung quanh nhà vua và ở đây nữa lại có những đội quân hộ vệ ngài ”.
(Hồi ký về những tập quán trên đất Campuchia - Bản dịch của Pelliot)
Sự hùng cường của vương quốc Angkor lên đến đỉnh điểm dưới triều đại vua Suryavarman II ở thế kỷ XI, người xây dựng Angkor Vat và vua Jayavarman II, ở thế kỷ XII, cũng là một nhà xây dựng lớn đã xây nhiều cung điện và đền đài. Một quá trình đi lên, tuy nhiên nhiều lần bị gián đoạn bởi những hồi bi thảm, những cuộc xung đột với các nước láng giềng - tuy mỗi lần chiến thắng đã đưa đến một sự bành trướng lãnh thổ thậm chí quá mức, sang tận đồng bằng sông Mê Nam ở phía tây, lấn đất của Chămpa ở phía đông, tiến lên phía bắc đến tận lãnh thổ của Lào hiện nay, nhưng đôi khi cũng đã dẫn đến tai họa. Một mưu đồ to tát như thế, ở trong nước được đánh dấu bằng những tổ hợp kiến trúc đồ sộ, ở bên ngoài bằng những cuộc chiến tranh liên miên chống các nước láng giềng, rốt cuộc tất yếu đã đưa vương triều Angkor đến bước suy đồi.