← Quay lại trang sách

Sự phát triển của văn học chữ Nôm

Sự khủng hoảng của Khổng giáo có mặt tích cực ở chỗ nó giải phóng nhiều đầu óc thoát khỏi một hệ ý thức làm khô cằn tâm trí con người. Thoát khỏi các giáo lý và nhất là được cuốn theo phong trào dân chúng mà biểu hiện rõ nét nhất là những cuộc khởi nghĩa nông dân, nhiều người - đặc biệt là các nhà thơ và nhà văn, nhìn lại xã hội cũ với một con mắt phê phán và họ tìm cách nói lên những khát vọng mới. Những đề tài mới xuất hiện đòi hỏi những hình thức thể hiện mới, trong khi ngôn ngữ ngày càng phong phú hơn, chính xác hơn và uyển chuyển hơn. Nhiều công trình sử học cũng đã ra đời còn y học thì có một đà phát triển mới.

Mặc dù những nghiên cứu về lịch sử và y học đều được viết bằng chữ Hán, nhưng trong văn học, địa vị ngự trị thuộc về chữ Nôm. Đây là một bước ngoặt thật sự, đảm bảo dứt khoát ưu thế của chữ Nôm, mặc dù chữ Hán vẫn còn được dùng cho đến đầu thế kỷ XX.

Truyện kể và truyện ngụ ngôn ở đầu thế kỷ XVII

Đặc điểm nổi bật của thế kỷ này là sự xuất hiện của những truyện kể và truyện ngụ ngôn viết bằng chữ Nôm, một thể loại mới trong nền văn học dân tộc. Sự chỉ trích xã hội phong kiến, những đề tài về tình yêu, những tư tưởng nhân văn chủ nghĩa bắt đầu ló dạng trong những tác phẩm này.

Truyện Vương Tương là hình ảnh của một triều đình đồi trụy, giới quan lại ăn bám và một xã hội bất công chà đạp lên hạnh phúc của người đàn bà. Truyện Trê cóc thông qua câu chuyện ngụ ngôn về các giống vật, tố cáo bọn hương lý và quan lại lợi dụng những vụ kiện cáo nhỏ nhặt nhất để bòn rút hết của cải của nhân dân. Trong truyện ngụ ngôn Con chuột đạo đức tác giả vạch trần thói hoang dâm của những nhân vật tai to mặt lớn và nêu cao đức hạnh của những người phụ nữ bình thường.

Dưới dạng kể chuyện thần tiên, truyện Bạch Viên - Tôn Các ca ngợi tình yêu của một đôi trai gái thoát khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Cũng thuộc thế kỷ XVII, còn phải kể Thiên nam ngữ lục , chuyện lịch sử bằng thơ (8136 câu) kể lịch sử đất nước từ ngọn nguồn cho đến khi nhà Mạc sụp đổ (1592).

Sự phát triển của văn học ở thế kỷ XVIII

Những truyện kể và ngụ ngôn của thế kỷ XVII báo hiệu sự nở rộ ở thế kỷ XVIII. Nền văn học chữ Nôm chiếm ưu thế một cách hết sức rõ rệt, nhất là về mặt chất lượng của các tác phẩm. Ảnh hưởng của nền văn học dân gian truyền miệng lớn dần lên cả về mặt ngôn ngữ lẫn mặt nội dung của những tác phẩm thành văn. Lời ăn tiếng nói hàng ngày giản dị, uyển chuyển, ngôn ngữ biểu hiện phong phú màu sắc của những cách ngôn, tục ngữ và dân ca, cũng như nội dung châm biếm của những truyện kể được truyền vào trong các tác phẩm văn học. Những tác giả lớn đã thực hiện một sự tổng hợp giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ văn học cố điển, giữa minh triết dân gian và văn hóa cố điển Trung Quốc, bằng cách đó sáng tạo nên những tác phẩm độc đáo, với một ngôn ngữ sống động và giàu màu sắc. Chúng ta chứng kiến một bước ngoặt thật sự trong quá trình tiên hóa của tiếng Việt. Thơ ca được chắp đôi cánh khoẻ để vút lên.

Thể loại phát triển mạnh nhất là truyện kể hay truyện bằng thơ, thường là của những tác giả vô danh. Truyện kể của thế kỷ XVII giản dị, được rút gọn thành một câu chuyện không có những tình tiết phức tạp. Đến thế kỷ XVIII, truyện kể trở nên phức tạp phong phú hơn, tình tiết phát triển với những đột biến liên tiếp, các nhân vật được miêu tả sắc nét hơn.

Cũng cần chú ý đến sự xuất hiện của văn chương trào phúng dưới dạng những bài thơ hay truyện kể đả kích những nhân vật quan phương của xã hội phong kiến, kể cả nhà vua. Sự chỉ trích xã hội phong kiến như thế cũng được thấy dưới những dạng khác trong những tiểu thuyết bằng thơ, đưa lên sân khấu những viên quan lại tham nhũng và tàn bạo, những ông vua dâm đãng chuyên chế. Sử biên niên vạch trần một cuộc sống cung đình thối nát vì thói hoang dâm, những cuộc đấu tranh, những âm mưu giữa các phe phái.

Sau đây, chúng tôi chỉ nêu lên những tác phẩm và những tác giả quan trọng nhất.

Những nhà thơ lớn của thế kỷ XVIII

Về thơ, chúng tôi chỉ nói đến hai tác phẩm lớn là: Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc và các bài thơ châm biếm của Hồ Xuân Hương.

Chinh phụ ngâm do tác giả Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán, được biết đến nhiều hơn qua bản dịch Nôm của nhà thơ Đoàn Thị Điểm; đây là một bài thơ rất dài (408 câu) tả những nỗi buồn, lo và hy vọng của một người đàn bà có chồng ra trận. Trong các tác phẩm phong kiến cổ điển, chiến tranh thường được nêu lên như là một dịp để các thần dân chứng tỏ lòng trung với vua và giành lấy vinh quang, ở trong tác phẩm này, chiến tranh chỉ đem lại đau khổ, chia ly, tai họa. Những cuộc chiến tranh liên miên không dứt giữa các vua chúa phong kiến để củng cố đặc quyền đặc lợi, hoặc để loại trừ những địch thủ của mình, đã không còn khơi dậy một chút nhiệt tình nào.

Chinh phụ ngâm là tiếng vang của những bài dân ca chống chiến tranh. Bản dịch Nôm được thực hiện bằng một ngôn ngữ tế nhị nhưng giản dị, rất giàu nhạc điệu, mô tả một cách tính tế những tình cảm đang xâm chiếm người vợ của kẻ chinh phu. Đây là lần đầu tiên một tác phẩm được tập trung thể hiện những tình cảm nội tâm của một người đàn bà, nói cho chính xác đó là một tác phẩm lãng mạn.

Cung oán , tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều (1741 - 1798) kể về những đau khổ của một thiếu phụ, có sắc có tài, buộc phải sống một cuộc đời quạnh hiu, bị bỏ mặc trong lãnh cung của nhà vua. Xuất thân từ một danh gia vọng tộc liên minh với chúa Trịnh, tác giả đã có điều kiện được nhìn tận mắt sự suy đồi của nền quân chủ phong kiến. Bằng sáng tác của mình, ông lên tiếng tố cáo một trong những khía cạnh lạc hậu nhất của chế độ này.

Số phận như thế của người phụ nữ được nêu bật trong Cung oán và Chinh phụ ngâm cũng là một trong những đề tài chủ yếu trong tác phẩm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, một nhà thơ không chỉ cam tâm than vãn mà chuyển sang tiến công. Ưu thế của đàn ông không được bà công nhận nữa, chính là xã hội chứ không phải tự nhiên đã đẩy người đàn bà xuống hàng dưới:

“ Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ”.

Hay chữ, thông thái, bà không e ngại sử dụng một thứ ngôn ngữ dân gian, rất giàu màu sắc, rất táo bạo trong thể hiện, với nghệ thuật bậc thầy, những từ thô, những thành ngữ chớt nhả vẫn không rơi vào sự tầm thường. Bà đả kích không thương tiếc những kẻ quyền thế đạo đức giả, vạch mặt trái những quy ước xã hội, phản đối kịch liệt nạn đa thê. Bằng một văn phong không ai bắt chước nổi, với những ám chỉ, bằng cách vận dụng tính chất có hai nghĩa của những từ và thành ngữ, bà thẳng tay ném bùn vào mặt những nhân vật tai to mặt lớn nhất của xã hội phong kiến. Chính bằng cách đó mà trong bài thơ Vịnh cái quạt , sau những ý tứ đầy gợi cảm, bà kết thúc bằng một câu thật bất ngờ:

“ Chúa dấu vua yêu một cái này! ”

Như thế là thói hoang dâm của bọn vua Lê chúa Trịnh bị tố cáo bằng cách tiên công trực diện. Các nhà sư cũng không được buông tha:

“ Oản dâng trước mắt dăm ba phẩm

Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà ”.

Trái lại, bà dành sự thương yêu cho những người phụ nữ đau khổ, dám bảo vệ những người mẹ không chồng trong một xã hội lễ giáo vào loại khắt khe nghiêm ngặt nhất. Chính vì vậy mà Hồ Xuân Hương - một tác giả rất đại chúng, có một chỗ đứng riêng trong nền văn học Việt Nam.

Những truyện kể trào phúng

Văn chương trào phúng đả kích xã hội phong kiến thể hiện một cách có hệ thống trong các truyện kể dân gian: Trạng Quỳnh và Trạng Lợn .

Trạng Quỳnh tiến công trực diện và chỉ đích danh các chúa Trịnh. Truyện kể đưa ra một chúa Trịnh thối nát, dâm đãng, nhỏ nhen buộc phải đấu với một ''Trạng'' Quỳnh bao giờ cũng chơi xỏ được ông ta, bất chấp mọi thủ đoạn thi thố của tên bạo chúa.

Trạng Lợn kể chuyện một anh chàng nghèo rớt mồng tơi, nhờ một loạt chuyện tình cờ mà leo lên đến những phẩm trật cao nhất của quan trường, trở thành sứ thần, thậm chí làm cho cả hoàng đế Trung Hoa cũng phải nể phục, rốt cuộc thâu tóm vào tay mình mọi quyền bính, tất cả triều đình đều phải phục “tài”. Sự bất tài bất lực của bọn vua quan bị vạch trần bằng những truyện kế kỳ quặc và khôi hài như thế.

Những truyện thơ khuyết danh

Sự nở rộ của những truyện kể và truyện thơ đánh dấu một giai đoạn văn học mới, đặc biệt là có những đề tài mới. Lần đầu tiên trong lòng của xã hội phong kiến, một xã hội không dành một chỗ nào cho những khát vọng cá nhân, đã xuất hiện những tình cảm mới, đặc biệt là yêu sách của cá nhân đòi tự do yêu đương, đòi tự do phát triển những khả năng của mình và khát vọng hướng tới một xã hội công bằng hơn, trong đó con người có thế tìm được hạnh phúc. Đặc biệt, chúng ta chứng kiến sự xuất hiện người phụ nữ dũng cảm bảo vệ tình yêu được tự do lựa chọn, chống lại những cuộc hôn nhân do gia đình áp đặt. Trước đó, người đàn bà có thể nói là vắng mặt trong văn học, hoặc chỉ có một vài câu thơ, bài hát trình bày họ như một '' giọt mưa sa không biết về đâu' ' hay như “ tấm lụa đào phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ”.

Những nhân vật nữ trong các tiểu thuyết của thế kỷ XVIII, chọn người đàn ông mà họ yêu, bất chấp sự phản đối của gia đình, cần thì đấu tranh khi hạnh phúc của mình bị đe dọa. Các tác giả ngợi ca tình yêu đó bằng giọng văn lãng mạn.

Mặt khác, đó là những tác phẩm hiện thực chủ nghĩa, do sự miêu tả mang tính chỉ trích đối với xã hội phong kiến, một số nhân vật chính diện được xây dựng rất sinh động. Qua những tác phẩm đó, thấy hiện rõ những khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa đạo đức khô cằn của Khổng giáo. Đây chưa phải là một chủ nghĩa nhân văn hoàn linh, chặt chẽ như chủ nghĩa nhân văn của các nhà văn thời kỳ Phục hưng ở châu Âu, nhưng những tư tưởng mới đó đã không vì thế mà không truyền một tinh thần mới cho nền văn học Việt Nam của thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân và một trình độ phát triển nhất định của kinh thành hóa đã là động lực thúc đẩy mới đối với nền văn học.

Một điều cần lưu ý là nhiều hếu thuyết vay mượn đề tài những câu chuyện của Trung Quốc, giống như các nhà văn cổ điển Pháp ở thế kỷ XVII, sử dụng những để tài Hy Lạp hoặc La Mã.

Những tác phẩm chính thuộc thể loại này là Phan Trần, Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Công - Cúc Hoa, Hoàng Trừu, Lý Công . Cần dành riêng một vị trí cho chuyện Thạch Sanh, người tiều phu chiến thắng ma quỷ và giặc ngoại xâm, vị anh hùng cứu nước xuất thân từ nhân dân lao động, dũng cảm, anh hùng, nhân hậu. Chàng trai chỉ có độc một chiếc quần đùi và cái búa, vậy mà đã đánh thắng được tất cả mọi kẻ thù và vượt qua được tất cả mọi khó khăn.

Nguyễn Du và Truyện Kiều

Mặc dù ra đời vào những năm đầu của thế kỷ XIX, các tác phẩm của Nguyễn Du (1765 - 1820), về nội dung cũng như văn phong, rõ ràng thuộc về thế kỷ XVIII. Trong những tác phẩm đó thể hiện rất rõ những cơn biến động của xã hội thế kỷ XVIII, cũng như những khát vọng đượm tính chất chủ nghĩa nhân văn và sự chỉ trích xã hội phong kiến. Xuất thân từ một gia đình quan lại lớn dưới thời nhà Lê, Nguyễn Du đã buộc phải lui về quê sống cuộc đời ẩn dật khi nhà Lê bị Tây Sơn lật đổ, ông đã lại ra làm quan dưới triều Gia Long. Nhưng những ấn tượng về những đảo lộn trong thế kỷ cũng như nhiều năm tiếp xúc với cuộc sống của nhân dân ở thôn xã đã in sâu vào tâm trí của Nguyễn Du, gây cho ông một niềm thương cảm sâu sắc đối với nỗi khốn cùng của nhân dân - đôi khi niềm thương cảm đi liền với lòng căm giận đối với chế độ vua quan, một sự thương yêu tha thiết đối với những cuộc đời khổ ải. Tất cả đã gây cho ông một nỗi bi quan vô phương cứu chữa.

Nguyễn Du đã để lại nhiều bài thơ chữ Hán, bài thơ Nôm nổi tiếng Văn chiêu hồn và kiệt tác Truyện Kiều . Trong các bài thơ chữ Hán, Nguyễn Du miêu tả nỗi khổ của những người nghèo bằng những lời thắm thiết. Trong Văn chiêu hồn , tác giả dựng lên một bức tranh u ám của một xã hội trong đó tất cả mọi hạng người chỉ tìm thấy hoạn nạn và nghèo khổ. Tương phản với sự khốn cùng đó, ông đựng lên bức tranh những viên quan thang lam cho đổ các thức cao lương mỹ vị xuống nước và '' nhai thịt người trông ngọt xớt như đường ".

Với Truyện Kiều , Nguyễn Du đạt đến trình độ hoàn toàn làm chủ nghệ thuật của mình. Bài thơ gồm 3254 câu này kể lại cuộc đời một cô gái tài sắc tuyệt vời, nhưng bị một viên quan tham tàn đẩy vào những nỗi đoạn trường trong suốt mười lăm năm trước khi được trở về lại với gia đình. Tác phẩm vừa mời ra đời đã lập tức được hoan nghênh và không ngừng được phổ biến rộng rãi; những người bình thường không biết chữ đọc thuộc lòng từng đoạn dài trong những buổi tối họp mặt, những nhà nho khó tính nhất lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc không gì sánh nổi. Thành tựu phi thường đó của Truyện Kiều là nhờ cái đẹp của ngôn ngữ lẫn nội dung cốt truyện.

Nguyễn Du đã thực hiện được một sự tổng hợp tuyệt vời giữa lời ăn tiếng nói dân gian và ngôn ngữ văn học cổ điển.

Truyện Kiều đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong lịch sử tiếng Việt, Nguyễn Du đã góp phần làm cho tiếng Việt thêm phong phú, uyển chuyển, chỉnh xác và súc tích; điều ấy không thể tìm thấy ở bất cứ một tác giả đương thời nào khác.

Với tâm hồn lãng mạn, Nguyễn Du biết cách ngợi ca vẻ đẹp của một phong cảnh, thể hiện một cách tuyệt vời mối tình làm quặn đau một trái tim đang yêu cũng như nỗi buồn, mối sầu sự thất vọng, niềm vui chiến thắng, là nhà văn hiện thực chủ nghĩa, chỉ bằng một vài từ, ông có thể phác họa chân dung của một nhân vật, lột tả một tính cách, mô tả một cảnh tượng. Cốt truyện được xây dựng với những tình hết chọn lọc một cách tuyệt vời không rườm rà dài dòng, nhưng hứng thú của người đọc thì không một lúc nào chùng xuống.

Tiếng vang sâu xa của Truyện Kiều không những là do hình thức đẹp mà cả vì nội dung. Bằng tác phẩm mang tính hiện thực rất cao của mình, Nguyễn Du tố cáo chế độ phong kiến áp bức và thối nát một cách đích đáng, không một tên quan lại nào trong Truyện Kiều đáng được cảm tình. Những nỗi khổ của nàng Kiều tài sắc bắt nguồn từ lòng tham của một viên quan chỉ vì chút ít tiền bạc đã không ngần ngại nhấn chìm cả một gia đình vào cơn hoạn nạn. Vào trong dinh của quan tể tướng, người ta cảm thấy riêng mình và nghẹt thở, vị trọng thần đầu triều đủ biết mỗi một cách là dùng thủ đoạn phản trắc để đánh bại đối thủ. Ngược lại, đương đầu với chế độ quân chủ, hình ảnh của nhân vật Từ Hải - con người hiên ngang ''đội trời đạp đất'' " dọc ngang nào biết trên đầu có ai '' mới đẹp làm sao. Việc tôn vinh một kẻ phản nghịch như thế trong xã hội Khổng giáo thế hiện bản lĩnh của một con người rất táo bạo. Trong nhân vật Từ Hải có hình ảnh những thủ lĩnh lớn đã cầm đầu các phong trào khởi nghĩa, đặc biệt là Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Huệ, nhưng con người đã để lại một kỷ niệm không thể phai mờ.

Nguyễn Du cũng táo bạo không kém khi ca ngợi tình yêu của những đôi trai gái đã tự do tìm đến với nhau. Và chính là người con gái, trong lúc vắng mặt cha mẹ, đã chủ động tìm đến với người mình yêu. Thật là một chuyện động trời đối với một xã hội mà trong đó người đàn bà có nghĩa vụ phải tỏ ra là nhất mực phục tùng. Tác giả dành những trang tha thiết nồng nàn nhất trong thi phẩm để mô tả những cảnh tình tự, yêu thương thắm thiết giữa đôi trai gái yêu nhau; tình yêu tự do đôi lứa từng bị phỉ nhổ trong xã hội phong kiến, lại được nhà thơ Nguyễn Du ca ngợi. Nguyễn Du cũng không kiêng dè cả cái quan niệm tối thiêng liêng về đạo thủy chung, bắt buộc người phụ nữ phải dành trọn vẹn cả cuộc đời mình cho người chồng duy nhất, kể cả sau khi người đó chết. Nàng Kiều bị quăng đi quật lại, lắm phen buộc phải tự bán mình, đã yêu say đắm một lần thứ hai khi gặp được một trang anh hùng xứng đáng với mình. Mối tình thứ hai này, mà một nhà nho chính thống ắt đã khép vào tội phải cạo đầu bôi vôi, đã tìm được ở Nguyễn Du một người bảo vệ nhiệt tình. Đạo đức khắt khe và thanh khiết của đạo Khổng cấm mọi lời bóng gió đến tình yêu xác thịt; Nguyễn Du đã dám nói đến những điều đó mà không rơi vào sự tầm thường. Thế rồi, dưới ngọn bút rủa Nguyễn Du, nàng Kiều sau bao phen bị cuộc đời tàn bạo chà đạp, phải biến thành gái làng chơi, đã nói với người yêu của mình rằng nàng vẫn trong trắng, bất chấp mọi dập vùi, rằng tình yêu chung thủy phải được quan niệm một cách nhân đạo hơn là cách nhìn của những kẻ đạo đức giả. Trong những cơn biến động của thế kỷ XVIII, tình yêu trai gái, một điểm mới mẻ, là một trong những khát vọng mới và đã được Nguyễn Du lên tiếng ca ngợi.

Tuy nhiên, tác phẩm của Nguyễn Du cũng mang dấu ấn thế kỷ của mình. Thất bại của nhà Tây Sơn đã gióng hồi chuông báo tử của những niềm hy vọng lớn đã từng được dấy lên với những cuộc khởi nghĩa nông dân; và cùng với việc Gia Long lên ngôi, đất nước Việt Nam lại rơi vào đêm đen phong kiến. Thời kỳ này không mở ra một triển vọng nào có thể soi đường cho những người muốn đấu tranh cũng như những ai suy tưởng về thân phận con người. Nguyễn Du đồng cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân, cảm nhận những khát vọng đang sục sôi trong lòng người, nhưng ông chới với trong những trầm tư không lối thoát về số phận của con người. Khổng giáo không còn đủ để giải thích tại sao lại có cơ man là đau khổ và bất công đến thế. Đành phải quay lại với những luận điểm của Phật giáo nhưng với một lòng tin chẳng được là bao. Tuy nhiên không phải vì nhũng mâu thuẫn về ý thức hệ như thế mà Nguyễn Du không phải là một nhà thơ rất vĩ đại với tác phẩm vẫn luôn luôn được tất cả mọi người yêu mến sâu sắc. (Hiện nay, thông qua nhiều bản dịch, tác phẩm đó đang đến với công chúng ở quy mô thế giới).

Nghiên cứu lịch sử và những tác phẩm sử học

Đi đôi với sự nở rộ của văn học là những công trình phong phú về sử học dưới dạng những sử biên niên, những chuyên khảo hay niên giám.

Pho Đại Việt sử ký toàn thư ra đời năm 1697, gồm 24 tập dưới sự chỉ đạo của Ngô Sĩ Liên kể lại lịch sử của đất nước từ buổi sơ khai cho đến thế kỷ XVII. Trong số những tác phẩm khác, đáng chú ý là Lê triều thông sử Của Lê Quý Đôn với lời tựa đề năm 1789, và Phủ biên tạp lục của cùng tác giả, gồm 6 tập chứa đựng nhiều thông tin về địa lý, kinh tế, hành chính, về những phong tục tập quán trong khu vực thuộc quyền thống trị của các chúa Nguyễn. Lê Quý Đôn còn có Kiến văn tiểu lục tập hợp những ghi chú, tư liệu về các thể chế, các danh nhân, các quy tắc và giới luật hiện hành, các danh lam thắng cảnh, các mỏ khoáng sản, các môn phái Phật giáo từ đời Trần đến đời Lê.

Lê Quý Đôn (1726 - 1783) không những là nhà sử học mà còn là một nhà bách khoa thực sự. Vừa đảm nhiệm những chức vụ cao cả về dân sự lẫn quân sự ở phủ chúa Trịnh, ông vừa không ngừng thu thập các tài liệu, nghiên cứu thực tế tình hình đất nước và từ đó phát hiện những vấn đế cốt lõi làm nên các công trình của mình. Trí tuệ khao khát hiểu biết của ông đã khiến ông nghiên cứu những lĩnh vực rất khác nhau, chẳng hạn các loại giống lúa, bản dịch tiếng Trung Quốc của một số tác giả phương Tây nói về quả đất tròn, luận điểm mà ông chấp nhận. Ngoài các công trình sử học, ông còn để lại một tập như từ điển bách khoa là Vân đài loại ngữ , trong đó có một số chương, ông trình bày quan niệm của riêng mình về vũ trụ, về tính ưu tiên của Lý hay của Khí , của Vô cực hay Thái cực .

Lê Quý Đôn viết:

“ Thái cực là một, là một thực thể đầu tiên không phân hóa, vừa biến đổi không ngừng vừa vĩnh viễn tóm lại. Không thể nói cái tồn tại là từ cái vô cực mà ra... Khí có trước tiên và không phân hóa là thể của vạn vật. Lý không có hình tích, chỉ có thể tồn tại nhờ Khí, có ở ngay trong Khí ”.

Ông nhấn mạnh tính vĩnh hằng của những sự kiện thiên nhiên:

“ Trời thì cao và ở cách đất không biết mấy vạn dặm. Thế nhưng chỉ cần một vài con số người ta có thể xác định được vị trí và quỹ đạo của các thiên thể. Vì vậy, nếu tồn tại là vô biên, những biểu hiện của tồn tại là vô cùng và huyền diệu, thì quy tắc của tồn tại cũng không vì thế mà không phải là vĩnh hằng.

Có thể hiểu vì sao Lê Quý Đôn đã khao khát am hiểu nhiều lĩnh vực; đó là một tư duy tiền khoa học, sinh ra từ trong những biến động đảo lộn của thế kỷ XVIII.

Trong số các sử biên niên, cần đặc biệt chú ý tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí mô tả hết sức sinh động những cuộc đấu tranh và mưu mô đang giằng xé triều đình nhà Lê và chúa Trịnh. Cuốn Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hồ (1768 - 1839), tập hợp một loạt những sự kiện và nhận xét vế những thể chế và lề thói dưới triều của những vua Lê cuối cùng. Cũng tác giả này đã hợp tác với Nguyễn An (1770 - 1815), để viết Tang thương ngẫu lục , một tuyển tập gồm nhiều truyện kể, phần lớn gắn với lịch sử ở thế kỷ XVIII. Tác phẩm Thượng kinh ký sự của thầy thuốc Lê Hữu Trác cũng cung cấp những tư liệu quý báu về cuộc sống ở phủ chúa Trịnh. Tiếp tục truyền thống những tác phẩm của thế kỷ trước, những nhà nghiên cứu lịch sử đầu thế kỷ XIX, đã cho ra đời nhiều tác phẩm quan trọng. Các sử quan của triều đình nhà Nguyễn đã cho xuất bản hai công trình quy mô lớn, một viết vế lịch sử của dân tộc từ thuở ban đầu là Cương mục gồm 52 tập, và một kể về lịch sử của các chúa Nguyễn từ khi ly khai cho đến ngày thành lập vương triều nhà Nguyễn là bộ Đại Nam thực lục gồm 453 tập. Tác phẩm nổi bật nhất là Lịch triều hiến chương , một bách khoa toàn thư thực sự viết về các thể chế chính trị, xã hội, kinh tế, sản xuất văn hóa của Việt Nam từ nhiều thế kỷ. Hiện nay công trình này là nguồn cung cấp tư liệu quý giá nhất cho công cuộc nghiên cứu về nước Việt Nam truyền thống.

Lê Hữu Trác và sự phát triển y học

Cùng với Lê Hữu Trác (1720 - 1791), với biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông được nhiều người biết hơn, việc nghiên cứu y học đã có sự phát triển tốt đẹp. Là một nhà nho hay chữ, nhưng ông đã xoay lưng lại với hoạn lộ, về sống ở làng quê và cống hiên cả cuộc đời mình cho nghiên cứu y học.

Sau nhiều chục năm quan sát và nghiên cứu, ông đã viết thành một chuyên luận về y học gồm 28 muôn, 66 tập, bao gồm các phần:

- Lý thuyết;

- Bệnh học với những nghiên cứu chuyên đề về bệnh đậu mùa, bệnh sởi, các bệnh trẻ em và bệnh phụ khoa;

- Những cách chế thuốc;

- Dược lý;

- Quan sát lâm sàng;

- Vệ sinh.

Công lao của Lãn Ông là đã đặt cơ sở cho một nền y học dựa trên quan sát những sự kiện lâm sàng, những điều kiện khí hậu, những đặc tính của các cây cỏ và sản vật trong nước; những quan sát và công thức của ông đến nay vẫn còn quý báu. Ông nắm chắc một cách tuyệt vời các y lý kinh điển của Trung Hoa, nhưng ông dựa trước hết vào sự quan sát. Những quan sát y học của ông rất tỉ mỉ, được làm với dụng tâm giữ làm tài liệu đế đối chiếu với kinh nghiệm của những người khác. Một nguyên tắc lớn nữa của Lãn Ông là coi trọng việc giữ gìn vệ sinh để phòng ngừa bệnh tật, một thứ vệ sinh được hiểu theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này, tức là sự tổ chức cuộc sống hàng ngày; ông không xem thường việc đưa ra những lời khuyên cho các bà nội trợ về vấn đề ăn uống cũng như về ăn mặc. Lãn Ông cũng đã đề ra những nguyên tắc y đức đượm tính nhân văn. Ông viết:

“ Nghề y là một nghề về con người, phải giữ gìn sự sống, lo đến những buồn vui của con người, chỉ nghĩ đến giúp người mà không tính đến lợi danh.

Kẻ giàu không thiếu thầy thuốc, người nghèo chẳng dễ mời được những lương y, cho nên phải đặc biệt nghĩ đến họ.

Nghề y là một nghề cao quý, chúng ta phải giữ cho tâm hồn mình hoàn toàn trong sáng ”.

Vừa có đầu óc khoa học vừa có tâm hồn đượm tính nhân văn, Lê Hữu Trác là một điển hình báo trước sự ra đời của những trí tuệ lớn của thế kỷ XVIII.