Chương 8 Mất độc lập - Sơ lược
Ngày 31 tháng 8 năm 1858, một hạm đội Pháp tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh chinh phục thuộc địa của đế quốc Pháp diễn ra qua nhiều giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1884, cho đến khi thôn tính hoàn toàn Việt Nam.
Đế quốc Pháp giữa lúc bành trướng mạnh mẽ đã đánh vào một nền quân chủ phong kiến đang suy tàn. Vương triều Nguyễn lên nắm quyền, sau khi đàn áp một phong trào khởi nghĩa rộng lớn, đã khôi phục chế độ phong kiến dưới dạng khắc nghiệt nhất của chế độ này. Nhưng các cuộc nổi dậy của nông dân không vì thế mà không tiếp tục nổ ra, thử thách nghiêm trọng bộ máy cai trị chủ yếu gồm giới quan lại được nhào nặn theo hệ ý thức Khổng giáo rất bảo thủ và câu nệ nghi thức cộng với giới hào lý xuất thân từ giai cấp địa chủ ở cấp thôn xã. Những phương tiện kỹ thuật thô sơ không cho phép cai trị có hiệu quả một lãnh thổ trải dài trên hàng nghìn cây số từ Bắc đến Nam. Thực dân Pháp đã nhằm vào vùng đất khó bảo toàn nhất là miền Nam để mở đầu cuộc xâm lược.
Đương đầu với nạn ngoại xâm, về phía Việt Nam có hai phái đối địch nhau, phái chủ hòa và phái chủ liến. Nhà vua và các quan đại thần trong triều đều hoảng sợ vì những vũ khí hiện đại của người Pháp; họ cũng sai lầm trong sự đánh giá những ý đồ của kẻ xâm lược, tưởng rằng người Pháp đến từ rất xa, cho nên tính chuyện đòi những lợi thế về thương mại nhiều hơn là nghĩ đến việc chinh phục lãnh thổ. Vả chăng vương triều Nguyễn luôn luôn bận tay đàn áp các cuộc nổi dậy, không thể và cũng không muốn động viên tất cả sức mạnh dân tộc để chống ngoại xâm. Vì tất cả những lý do đó, nhà vua và các đại thần trong triều đã thi hành chính sách ''hòa nghị'' (hòa bình và thương lượng), cố né tránh những đòn săm sét của kẻ xâm lược bằng những nhân nhượng ngày càng quan trọng. Ngược lại, một bộ phận trong giới quan lại, đại đa số các sĩ phu và nhân dân nói chung, thừa hưởng truyền thống lâu đời đấu tranh vì độc lập dân tộc, đã tiến hành một cuộc kháng chiến quyết liệt. Trong khi quân đội của triều đình chỉ chống cự yếu ớt thì trái lại, cuộc kháng chiến của các lực lượng nhân dân mạnh mẽ và liên tục, buộc đế quốc Pháp phải tiến hành một cuộc chiến tranh kéo dài và tốn kém. Tuy nhiên, sự vô trách nhiệm của triều đình, lực lượng duy nhất lúc bấy giờ có thể đảm đương vai trò lãnh đạo trên quy mô cả nước, đã phá hủy mọi cố gắng của những người yêu nước Việt Nam.
Bọn thực dân Pháp áp dụng một chiến thuật đặc biệt khôn ngoan. Chúng bắt đầu bằng cách tìm một chỗ đứng chân trên lãnh thổ Việt Nam, mà triều đình Huế đã buộc phải nhường cho chúng thông qua một hiệp ước được ký kết rất đúng quy cách. Thế là kẻ xâm lược đã sở hữu một căn cứ xuất phát, từ đó chuẩn bị những cuộc thôn tính mới và có thời gian tạm nghỉ để tranh thủ dẹp yên những vụ phản kháng của nhân dân bùng lên trên các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Tiếp đó, chúng vi phạm hiệp ước, lại tiến hành xâm lược. Triều đình Huế lại nhân nhượng, lại có hiệp ước mới, vi phạm mới, chinh phục mới. Cứ thế, kịch bản diễn đi diễn lại cho đến khi đất nước bị thôn tính hoàn toàn.
Chế độ quân chủ trượt dài từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, rút cuộc là sự đầu hàng và phản bội. Nhà vua và các đại thần đã chọn con đường bán rẻ nền độc lập dân tộc để giữ lấy một vài thứ đặc quyền đặc lợi mà kẻ binh phục hạ cố bố thí nhằm mua chuộc lòng trung thành của họ. Từ chỗ là những người mang sứ mệnh giữ gìn nền độc lập và danh dự của dân tộc, họ dần dần trở thành tay sai phục vụ ngoại bang trong việc đàn áp phong trào yêu nước của nhân dân. Triều đình Huế đã tìm kiếm sự ủng hộ từ phía đế quốc Trưng Hoa, nhưng họ cũng đang trong bước suy tàn và đang phải chống chọi những cuộc xâm lược của phương Tây nên không thể làm chệch hướng đi của thời cuộc.