← Quay lại trang sách

Giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tầng lớp trí thức mới

Việc thành lập các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại của thực dân, việc xây dựng đường sắt và các phương tiện giao thông khác đã kéo theo sự xuất hiện một giai cấp xã hội mới: giai cấp công nhân. Không mạnh về số lượng như giai cấp công nhân Âu châu, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam không vì thế mà không đóng một vai trò hết sức quan trọng, bới vì họ có đặc trưng là ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và số phận của họ gắn chặt với số phận của công cuộc thực dân hóa ngay khi mới ra đời trong các hầm mỏ, công trường, xí nghiệp họ đã trực tiếp ngay với những thực tế thuộc địa gay go: đồng lương chết đói, lao động kiệt sức không có giới hạn và không có một sự đảm bảo nào nhưng họ cũng tiếp xúc với nền công nghiệp hiện đại.

Đối với những công trình công chính, đặc biệt việc xây dựng đường bộ và đường sắt, chính quyền thuộc địa trưng dụng nông dân ở tất cả các làng xã. Khi đã trở thành những ''cu ly'' trên các công trường rồi, họ lao động trong những điều kiện như ở địa ngục. Một tác giả người Pháp, ông Jean Ajalbert đã kể lại: '' Việc trưng tập trở thành một kiểu đầy ải được ngụy trang một cách vụng về các công trình công chính đã đưa từng cộng đồng nguyên vẹn vào các công trường, từ đây chỉ một bộ phận nhỏ trở về được mà thôi… Năm 1901, tôi đã đi thăm vùng Lạng Bianc và ở lại đấy trong nhiều tuần lễ. Nha công chính ở đây do một viên đại úy thiết giáp đại diện. Số tử vong thật kinh khủng, số gạo ăn chỉ được tiếp tế một cách thất thường. Trên một đoạn dốc dài 120 km chỉ có một thầy thuốc... ''

Việc xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam phải huy động đến 80.000 con người, đã có 25.000 người bỏ mạng. Hẳn là chưa thể nói đến một ý thức giai cấp, nhưng ngay từ những ngày đầu những cuộc đấu tranh, những phong trào chống đối, yêu sách đã xuất hiện trên các công trình này.

Giai cấp tư sản Việt Nam trái lại ra đời chậm hơn. Trong những năm đầu của thế kỷ, mới chỉ có vài khâu quan trọng. Xã hội Việt Nam truyền thống cản trở sự phát triển của một giai cấp thương nhân gọi là đáng kể. Đối với các hoạt động thương mại, người Pháp thích làm ăn với các thương gia Trung Quốc hơn. Tuy nhiên, một số nhân viên thừa hành của các Công ty Pháp dần dần giàu lên tạo thành hạt nhân đầu tiên của giai cấp tư sản mại bản. Những phần tử tư sản Việt Nam thử cố gắng dựng lên một vài doanh nghiệp đều bị nản chí ngay hoặc bị phá sản do những biện pháp của chính quyền. Giai cấp tư sản Việt Nam mới ra đời đã bị đẩy sang lĩnh vực bóc lột địa tô và cho vay nặng lãi và chỉ có thể là một giai cấp tư sản ''còi cọc''.

Những thành phố mới bắt đầu xuất hiện ngay trên địa điểm của những trung tâm hành chính cũ: Hà Nội, Nam Định hoặc các cảng: Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng. Tại các thành phố đó bắt đầu xuất hiện những nhân tố của một cuộc sống mới; buôn bán trở lên nhộn nhịp hơn, vài ba nhà máy hoạt động, báo chí ra đời, ngành chiếu sáng bằng điện lực xuất hiện. Tuy vậy, cảnh nghèo túng của người lao động vẫn da diết, có khi khủng khiếp. Vả chăng, những thành phố này chỉ mới tập hợp một bộ phận tối thiểu dân cư.

Trong những thành phố này, những phần tử trí thức đầu tiên được đào tạo từ các trường của Pháp vẫn chưa đóng một vai trò đáng kể. Nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, các nho sĩ vẫn là nền tảng chính của giai tầng trí thức, nhưng ảnh hưởng uy tín đã bị hạ thấp rất nhiều. Rõ ràng là Khổng học không còn có thể làm cơ sở cho công cuộc khôi phục nền độc lập dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đã bắt đầu xuất hiện những nhà nho tân tiến, muốn tìm những con đường khác cho phong trào dân tộc, những con đường khác với những gì mà các bậc tiền bối của họ đã chủ trương.