← Quay lại trang sách

Việc tăng cường khai thác kinh tế thuộc địa

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, đế quốc Pháp tiếp tục một cách ráo riết việc khai thác các thuộc địa nhằm phục hưng nền kinh tế của mình. Hơn nữa việc đồng franc tụt giá và những vụ đầu cơ cao su trên thị trường thế giới càng đẩy nhanh việc đầu tư của Pháp vào Đông Dương.

Ngân hàng Đông Dương tăng vốn từ 48 triệu đồng (tiền Đông Dương) lên 72 triệu. Ngân hàng này được lập lên biết nhiều nhóm tài chính và công nghiệp lớn của Pháp và là ngân hàng phát hành bạc giấy, tập hợp dưới cây gậy chỉ huy của nó những hoạt động chủ yếu về kinh tế và tài chính ở Đông Dương. Chính ngân hàng này thực sự điều khiển đất nước. Vốn của ngân hàng địa ốc tăng từ 6 triệu năm 1923, lên 50 triệu năm 1925, vốn của Công ty tài chính và thuộc địa tăng từ 5 triệu năm 1920, lên 50 triệu năm 1926.

Từ năm 1888 đến năm 1918, đã có 490 triệu franc được đầu tư vào Đông Dương, từ năm 1919 đến năm 1929 là 8.000 nghìn triệu. Số tiền đầu tư đó còn xa mới đủ để thực sự sinh lợi cho xứ này. Luồng vốn đưa vào Đông Dương không đáp ứng nhu cầu của đất nước mà chỉ thỏa mãn được yêu cầu của các chủ cho vay người Pháp, những kẻ chỉ muốn nhìn thấy vốn đầu tư đó trở về dưới dạng tiền lãi mà thôi. Quá một nửa số vốn đó được giữ lại bên chính quốc để thực hiện các hợp đồng và các hoạt động tài chính. Các khoản đầu tư chủ yếu hướng vào khai thác hầm mỏ, đồn điền cao su, tóm lại là những hoạt động nhằm khai thác nguyên liệu để xuất khẩu.

Dòng chảy trở về Pháp của những khoản tiền lãi, tiền tiết kiệm của các công chức Pháp, tiền trả lãi theo kỳ hạn cho những số nợ đã vay tạo nên sự thâm hụt tài chính thường xuyên, đến mức các khoản đầu tư của Pháp không những không bơm được một dòng nhựa mới vào đất nước này mà còn như một cái vòi hút cắm vào nền kinh tế Việt Nam.

Không chú trọng phát triển sản xuất công nghiệp, tập trung các hoạt động kinh tế vào việc khai thác và xuất khẩu than đá cao su, khoáng sản, các khoản đầu tư vào những lĩnh vực ấy chẳng mảy may góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước này mà còn làm cho nó lệ thuộc vào những biến động của thị trường thế giới.

Người ta đổ xô vào việc trồng và sản xuất cao su. Trên những vùng đất đỏ ba - dan ở cao nguyên Nam Bộ và Cao Miên, nhiều điện tích rộng được cấp nhượng cho các công ty Pháp, trong đó có Công ty Michelin. Diện tích trồng cao su năm 1924 là 15.000ha, đến năm 1930 là 120.000ha, số nhân công sử dụng ở đây là từ 3.000 đến 80.000 người. Sản lượng cao su đã từ 298 tấn năm 1915, tăng lên 10.309 tấn năm 1929. Nhiều đồn điền cà phê, chè cũng được thành lập.

Đông Dương cũng đã trải qua một cơn “sốt khoáng sản”. Số giấy phép khai mỏ từ 496 năm 1923, lên đến 1.347 năm 1924, rồi 8.155 năm 1928, 17.685 năm 1929. Phần lớn các mỏ khai thác tập trung ở Bắc Bộ. Lượng than khai thác năm 1913 là 501.000 tấn đến năm 1929 tăng lên 1.972.000 tấn. Các mỏ thiếc, vôn- phram, chì... cũng được khai thác nhưng không có sắt. Toàn bộ sản lượng khoáng sản khai thác đều được xuất khẩu.

Trái lại, các công nghiệp chế biến phát triển rất hạn chế, chỉ những công nghiệp nào không cạnh tranh với công nghiệp Pháp mới được duy trì, trước hết là vì lợi ích của các công ty Pháp; trên thực tế, giai cấp tư sản dân tộc không được dự phần một chút nào vào đấy. Có thể kể ra việc mở rộng các nhà máy gạo, nhà máy bông Nam Định, nhà máy xi măng Hải Phòng, các nhà máy gạch ngói; tổng cộng lại, chẳng được bao năm, chỉ một số xí nghiệp tập trung chủ yếu ở các vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và Hải Phòng, vào năm 1929, tất cả chỉ sử dụng 86.000 công nhân.

Thực ra, những khoản tiền lãi thu được rất lớn chủ yếu do sự bóc lột nhân công cực kỳ rẻ mạt. Năm 1925, Ngân hàng Đông Dương công bố một khoản tiền lãi là 36 triệu đồng trên 72 triệu đồng tiền vốn. Công ty tài chính ngành cao su được lại 31 triệu đồng trên 100 triệu đồng tiền vốn. Những món tiền lãi đó đều được chuyển về Pháp, chẳng đóng góp mảy may vào việc mở rộng các xí nghiệp.

Ngân sách được tiếp tục duy trì bằng thuế đinh, thuế điền thổ và ba loại thuế độc quyền: thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện; tóm lại là bằng những đóng góp nặng nề bòn rút từ một dân chúng cực kỳ nghèo khổ để nuôi một bộ máy hành chính, quân sự và cảnh sát nặng nề. 70% ngân sách đã dùng để trả lương cho công chức và cảnh sát. Viên gác cổng người Pháp ở Trường Đại học Đông Dương hưởng lương gấp ba lần một giáo sư người Việt. Những hàng rào thuế quan làm cho hàng hóa nhập khẩu cực kỳ đắt. Cần ghi nhận rằng người Pháp cũng phải trả giá đắt đối với số gạo và cao su mua của Việt Nam. Kẻ trục lợi duy nhất công cuộc ''khai khẩn'' Đông Dương này vẫn là các công ty thuộc địa lớn.

Tính đến năm 1930, chính quyền thuộc địa cấp (hầu như không mất tiền) cho một số tên thực dân người Pháp những vùng đất rộng mênh mông với tổng diện tích 910.000ha.

Trên bình diện chính trị, những lời hứa hẹn ồn ào đưa ra trong thời chiến tranh hầu như đều không được thực hiện; chế độ thuộc địa vẫn giữ tính chất áp bức như trước. Tuy nhiên, bằng giọng lưỡi của những viên toàn quyền ''tự do'' ba hoa và mị dân, chính quyền thuộc địa tìm cách tranh thủ một nhóm nhỏ ''thượng lưu'' bằng những bài diễn văn rất kêu và những cải cách ''vô thưởng vô phạt'': thành lập Đại hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương, một Phòng Nông nghiệp, trên nguyên tắc là để làm cố vấn cho Chính phủ Đông Dương. Ở Nam Kỳ, số đại biểu của điền chủ và tư sản người Việt được tham dự trong Hội đồng thuộc địa ngang với người Pháp. Hội đồng này là cơ quan tư vấn của viên thống đốc người Pháp. Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ những Viện dân biểu được thành lập theo chế độ bầu cử hạn chế, làm cơ quan tư vấn cho các viên khâm sứ người Pháp.

Những dân biểu hoặc nghị viên này được tuyển chọn chặt chẽ chỉ dùng làm bình phong và được dân chúng gọi là “nghị gật”. Chính quyền thuộc địa thực ra không muốn ban cho những người tư sản và phong kiến Việt Nam một chút quyền lực thực sự nào. Ngay nhà vua cũng chỉ còn lại cái đặc quyền ban cấp phẩm hàm cho... các thành hoàng làng mà thôi!

Nước Việt Nam vẫn bị chia cắt làm ba ''xứ'' với những chế độ khác nhau, nhưng trong cả ba ''xứ'' đó, không một chút quyền tự do dân chủ tối thiểu nào được thừa nhận. Không có tự do lập hội, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do đi lại ngay trong cả nước. Tôn giáo duy nhất được ưu đãi là Thiên chúa giáo.