Phong kiến và nông dân
Quá trình tái cấu trúc xã hội mới chớm bắt đầu từ đầu thế kỷ, đã tăng nhanh tốc độ trong những năm sau chiến tranh.
Tầng lớp phong kiến bao gồm các địa chủ và bộ máy Nhà nước cũ: vua, quan và hào lý. Để duy trì đặc quyền, đặc lợi của mình, họ hoàn toàn nhận làm tay sai cho chính quyền thực dân. Về phía mình, chính quyền thực dân lại tìm cách duy trì bộ máy phong kiến để làm công cụ đàn áp và thu thuế. Quan lại và hào lý lợi dụng quyền hành của mình, dần dần chiếm đoạt những ruộng công phì nhiêu và ruộng của nông dân. Mặc dù có sự phân nhỏ tài sản do con cái địa chủ chia nhau cơ nghiệp của cha mẹ, quá trình tập trung tư hữu ruộng đất vẫn diễn ra ngày càng nhanh bởi vì giai cấp nông dân không chịu nổi thuế má và các khoản đóng góp nặng nề khác, bị bần cùng hóa nhanh chóng nên phải bán đi phần ruộng đất ít ỏi của họ. Việc khai khẩn những đất đai mới cùng với nạn giá gạo lên cao do số lượng xuất khẩu tăng nhanh, mang lại lợi lớn cho địa chủ.
Giai cấp địa chủ chỉ gồm từ 3 đến 5% dân số lại chiếm đến 50% ruộng đất. Ở Bắc Kỳ, ruộng đất rất manh mún, nhưng các địa chủ tập trung được nhiều mảnh đất phân tán vào tay họ. Ở Trung Kỳ, công điền công thổ vẫn nhiều, trên nguyên tắc được chia lại theo từng thời kỳ, nhưng hào lý trong làng bao giờ cũng dành cho họ phần đất béo bở nhất. Ở Nam Kỳ, đặc biệt vùng phía nam và phía tây châu thổ sông Mê Kông là nơi chế độ đại điền chủ đã xuất hiện cùng với chế độ thuộc địa, đất đai do dân chúng tạo ra sau những đợt đào kênh khơi ngòi và xây các công trình khác, được cấp cho những kẻ tôi tớ trung thành của chính quyền thuộc địa. Những cơ ngơi rộng trên 50 ha chiếm gần 50% diện tích đất đai, vào năm 1930, nằm trong tay 6.500 địa chủ - chỉ chiếm 2,5% dân số. Một số người trong đó chiếm đến hàng nghìn ha. Chỉ riêng những tên thực dân người Pháp ở Nam Kỳ sở hữu đến 200.000ha ruộng đất. Mặc dù sở hữu đất đai lớn như vậy, các điền chủ cũng chỉ giao cho tá điền lĩnh canh, buộc họ phải nộp tô đến 50% thu hoạch. Ở Nam Kỳ, tô có thể trả bằng tiền mặt, còn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tô phải nộp bằng hiện vật. Ở Nam Kỳ, đại địa chủ người Việt và thực dân Pháp liên hiệp với nhau thành lập ''Hội những người sản xuất lúa gạo''. Việc xuất hiện những điền trang lớn cũng như việc du nhập những phần tử địa chủ là thực dân Pháp không mảy may làm thay đổi tính chất lạc hậu của kỹ thuật nông nghiệp. Địa chủ và thực dân sông chủ yếu bằng sự bóc lột đến cùng cực sức lao động của người nông dân và không hề tìm cách cải tiến kỹ thuật. Nạn độc canh lúa gạo vẫn phổ biến và nếu sản xuất có tăng lên do việc mở rộng diện tích cày cấy thì cũng chỉ là để xuất khẩu, trong khi khẩu phần ăn hàng ngày của từng người dân giảm đi nhanh chóng. Một vài nhà máy xay hoặc phương tiện vận tải cơ giới chỉ hoạt động để phục vụ cho xuất khẩu. Ngược lại, như nhà địa lý học người Pháp, ông Gourou đã nói, người ta có thể đi khắp cả vùng châu thổ Bắc Kỳ mà không gặp một chiếc động cơ, một dụng cụ cơ giới hóa nào.
Giai cấp nông dân chiếm trên 90% dân số. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tiền tệ, giai cấp phú nông - những người trực tiếp khai thác ruộng đất của mình, đồng thời thuê mướn nhân công - có phần tăng trưởng, không phải để trở thành những nhà tư bản mà là để dần dần trở thành địa chủ. Ngược lại, việc tập trung nhanh chóng sở hữu ruộng đất dẫn đến chỗ thu hẹp dần tầng lớp trung nông - những người chỉ có số ruộng đất vừa đủ để sinh sống. Số bần nông - những người không có hoặc chỉ có một mảnh đất cỏn con, chiếm đa số. Ở Nam Kỳ, tất cả tá điền đều là những nông dân không có ruộng đất Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, số người có vài sào đất khá nhiều, nhưng đất đai, trâu bò và nông cụ của họ dần dần bị tước đoạt, không thể đi tìm việc làm ở thành thị vì công nghiệp ở đấy không phát triển, hàng triệu người đành phải đến van xin các địa chủ và thực dân để được nhận cày từng manh ruộng nhỏ bé. Hậu quả là thuế địa tô cao, việc tăng dân số nông thôn trở thành bi kịch, những kẻ đi tuyển mộ “cu ly” cho các hầm mỏ và đồn điền tha hồ áp đặt những điều kiện hà khắc, những trận đói do thiên tai gây nên xẩy ra thường xuyên. Đến mùa gặt, hàng ngàn nông dân không có ruộng đất, tập hợp nhau ở các chợ nhân công chờ có người thuê đi gặt mướn. Những tháng nông nhàn, hàng ngàn người khác đổ xô về thành phố để tìm cho được một việc làm hiếm hoi, đến mùa gặt lại trở về làng.
Tô đã cao, lại thêm nạn cho vay nặng lãi. Người nông dân phải trả cho địa chủ và những chủ nợ khác những khoản lãi nợ trung bình lên đến 10% mỗi tháng. Chớm đau ốm hay có tai nạn, người nông nghèo buộc phải đi vay và thường bị nợ nần trói buộc suốt đời, lãi mẹ đẻ lãi con, không bao giờ có thể dứt ra được. Rất nhiều khi họ phải bán cả con cái, bán cả mảnh đất nhỏ nhoi của họ để dứt nợ. Các địa chủ lại đòi hỏi họ phải quà cáp, biếu xén bằng hiện vật mỗi khi có lễ lạt, giỗ chạp, cưới xin.
Đã thế, mọi thứ lao dịch của làng xã, của quan trên, của Nhà nước thuộc địa đều đổ lên đầu những nông dân nghèo. Thuế thân mỗi suất trung bình bằng tiền công một tháng lao động của họ. Hàng năm, đến kỳ Nhà nước thực dân thu thuế thông qua bọn quan lại và hào lý, làng xóm nào cũng vang tiếng kêu khóc tuyệt vọng, hàng trăm nghìn nông dân bị bắt bớ, đòn roi, cho đến khi vợ con họ chạy được vài đồng bạc đóng thuế mới thôi.
Như vậy là chính quyền thuộc địa đã củng cố thêm những cấu trúc của chế độ phong kiến. Cùng với việc bần cùng hóa nhanh chóng giai cấp nông dân, các phong tục cũ biến mất, cuộc sống ở làng xã mất hết sức hấp dẫn. Không một đổi mới, không một tia sáng mới nào chiếu rọi đến những làng xóm chìm ngập trong cảnh đói nghèo, nơi hầu hết mọi người mù chữ. Trên đầu trên cổ của hàng triệu nông dân nghèo, ách áp bức của chế độ phong kiến và thực dân đè nặng như chì. Hàng triệu người nông dân đó bị bóc lột đến tận xương tủy, bị áp bức tàn bạo, đến khi tìm được người lãnh đạo sáng suốt, sẽ trở thành động lực chủ yếu của cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ.