← Quay lại trang sách

Một làn sóng mới sôi nổi của phong trào yêu nước

Đối với Xã hội Việt Nam đang biến chuyển, ngoài những nguyên nhân nội tại, còn có những ảnh hưởng bên ngoài quan trọng, trong đó, một số yếu tố có tính quyết định trong những năm sau chiến tranh.

Cách mạng Tháng Mười năm 1917, mở ra một kỷ nguyên lịch sử mới báo hiệu một cuộc tổng khủng hoảng vô phương cứu chữa của chủ nghĩa đế quốc, tạo những điều kiện và triển vọng cho công cuộc giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Ở Ấn Độ ở In-đô-nê-xi-a, ở Ai Cập, phong trào dân tộc vươn lên một đà mới; ở Trung Quốc, các sự kiện xảy ra dồn dập, trong khi ở Pháp, việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920) đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào công nhân.

Trong những năm 1918 - 1921, những cuộc nổi dậy vũ trang vẫn còn xảy ra, nhưng chỉ khoanh lại trong một số khu vực miền núi ở Bắc Kỳ; ở vùng Đông Bắc, có cuộc nổi dậy của các binh sĩ người Nùng và người Dao (Mán), người H'mông (Mèo) nổi dậy ở Tây Bắc.

Giai cấp tư sản bắt đầu thể hiện vai trò của mình trên bình diện chính trị bằng việc gây ra một cuộc tẩy chay hàng hóa nhập ngoại vào năm 1919, không phải đối với hàng hóa Pháp - họ còn quá yếu để có thể trực tiếp đối đầu với kẻ chiếm đóng, mà là tẩy chay hàng hóa của các hãng Trung Quốc. Nhiều cuộc mít tinh được tổ chức, nhiều vụ bạo hành chống các hãng Trung Quốc xảy ra, nhưng phong trào chưa bao giờ đạt đến một quy mô đáng kể. Chính quyền thuộc địa không tỏ ra ác cảm với phong trào đó, do tác dụng của nó làm lạc hướng đấu tranh, nhưng quần chúng đông đảo không đồng loạt hưởng ứng các khẩu hiệu được tung ra. Năm 1923, giai cấp tư sản Sài Gòn công khai phản đối một dự án nhượng độc quyền xuất nhập khẩu của cảng Sài Gòn cho một công ty Pháp. Phong trào được sự ủng hộ của các thương nhân Trung Quốc và một bộ phận dư luận cũng như của các nghị sĩ cánh tả ở Pháp nên dự án ấy bị phá vỡ. Chính từ trong giai cấp tư sản Sài Gòn này, gồm phần lớn là những công chức cũ của chính quyền thuộc địa giàu lên nhờ kinh doanh sản xuất lúa gạo, đã xuất hiện các đảng viên của ''Đảng lập hiến'' được thành lập năm 1923. Đảng này chỉ đòi hỏi một vị trí khá hơn cho giai cấp tư sản trong lòng chế độ thuộc địa.

Quan trọng hơn nhiều là lan sóng sục sôi trong cả nước đang lan tới chủ yếu là giai cấp công nhân và tiểu tư sản thành thị. Nhiều tờ báo ra đời bằng tiếng Việt hoặc bằng tiếng Pháp. Ở Nam Kỳ xuất bản tờ La Cloche fêlée (Tiếng chuông rè) của Nguyễn An Ninh, một trí thức du học ở Pháp về, nguồn cảm hứng lấy từ tư tưởng của các nhà lý luận Cách mạng Pháp; tờ L’Annam của Phan Văn Trường, một phần tử trí thức tiên tiến, cũng viết bằng tiếng Pháp. Tại Sài Gòn, Trần Huy Liệu ra tờ Đông Pháp thời báo ; Ở Hà Nội, Ngô Đức Kế ra tờ Hữu Thanh , ở Huế, Huỳnh Thúc Kháng ra tờ Tiếng Dân ; ba tờ báo này đều bằng tiếng Việt. Nhiều nhà xuất bản được thành lập, cho ra đời những cuốn sách kêu gọi đấu tranh yêu nước hoặc phố biến những khái niệm chính trị và khoa học hiện đại. Nhiều tổ chức chính trị, nhiều nhóm và chính đảng mới được thành lập; các hoạt động chính trị hầu như không ngớt: mít tinh, biểu tình, kiến nghị, bãi công... Hoạt động chính trị cũng dần dần mang những hình thức biểu hiện hiện đại, tuy nhiên với đặc điểm là do sự đàn áp của chính quyền thuộc địa vẫn luôn luôn tàn bạo, các tổ chức vẫn được giữ bí mật, còn báo chí thì bị nhiều hạn chế và cản trở: kiểm duyệt, tịch thu, cấm xuất bản; các nhà báo thì nhiều khi bị bỏ từ hay phát vãng.

Sau những cuộc nổi dậy vũ trang trong thời gian chiến tranh bị thất bại, các tổ chức lưu vong ở Trung Quốc cũng tự giải thể. Lãnh tụ Phan Bội Châu lưu lại ở Trung Quốc cho đến năm 1925, là năm ông bị bắt và giải về Việt Nam. Trong thời gian này, ông đã có dịp nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp xúc với nhiều Đảng viên cộng sản và đã phác ra dự định xích gần lại với những người này. Những thành viên trẻ tuổi và hăng hái hơn trong các tổ chức này tập hợp nhau lại trong Tâm tâm xã . Tổ chức cách mạng này đã biểu thị sự ra đời của mình bằng một hành động vang dội. Năm 1924, viên Toàn quyền Pháp Merlin trên đường đi Nhật Bản đã được đón tiếp ở Quảng Đông bằng một quả bom của người thanh niên Việt Nam Phạm Hồng Thái. Merlin thoát chết, Phạm Hồng Thái phải nhảy xuống sông Châu Giang rồi chết đuối, nhưng sự kiện này đã có một tiếng vang rất lớn.

Trong số những người Việt Nam sang Pháp để học hay bị động viên phục vụ chiến tranh - chính quyền thuộc địa đã cưỡng mộ 10 vạn người Việt Nam đi đánh trận ở Pháp, có nhiều người chịu ảnh hưởng của các trào lưu chính trị ở Pháp. Một số chỉ hành động trong vòng ảnh hưởng của những chính đảng cánh tả Pháp không chu trương làm cách mạng, trên cơ sở tư tưởng dân chủ tư sản. Tiêu biểu nhất cho khuynh hướng này là Phan Chu Trinh, vốn là một nhà nho yêu nước đã từng bị nhà cầm quyền thuộc địa đày ra Côn Đảo trước khi đưa ông sang Pháp. Ông chủ trương đấu tranh tìm bước để xóa bỏ các thể chế phong kiến, thiết lập các quyền tự do dân chủ trong lòng chế độ thuộc địa nhằm diễn tiến dần dần đến tự chủ, tránh tư tưởng đấu tranh vũ trang. Ông không thành lập chính đảng. Khuynh hướng thứ hai chịu ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng Tháng Mười qua trung gian phong trào công nhân Pháp.

Người đại diện kiệt xuất nhất của khuynh hướng này là Nguyễn Ái Quốc (về sau lấy tên là Hồ Chí Minh). Đến Pháp và sống bằng những nghề khác nhau, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với nhiều đảng, nhóm và nhân vật cánh tả Pháp, cùng nhiều chiến sĩ của các nước châu Phi và châu Á. Ông cũng đã từng sang Hoa Kỳ và Anh quốc. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và các tác phẩm của Lênin đã chỉ cho ông thấy rằng: Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể là chìa khóa cho cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Là đảng viên của đảng xã hội Pháp, tại Đại hội Tours tháng 12 năm 1920, ông đã chọn con đường gia nhập Đệ Tam Quốc tế và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Ông viết bài đều đặn cho các báo Pháp Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền , lập ra tờ Người cùng khổ , tổ chức Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và viết Bản án chế độ thực dân Pháp . Hoạt động đấu tranh và những bài viết của ông gây tiếng vang sâu sắc đến những người Việt Nam cùng những kiều dân các nước thuộc địa khác ở Pháp và đến dư luận ở Việt Nam. Năm 1923, ông rời nước Pháp, đi Liên Xô và đến năm 1924, với tư cách đại diện Đệ Tam Quốc tế, ông có mặt ở Quảng Đông, gây cơ sở cho một tổ chức cách mạng kiểu mới.

Trong khi tư tưởng và tổ chức chính trị đang trong quá trình đổi mới, thì giai cấp công nhân, vì lợi ích thiết thân của mình, đã bắt đầu tiến hành các cuộc đấu tranh với quy mô ngày càng lớn. Những cuộc bãi công nổ ra thường xuyên. Năm 1919 - 1920, thủy thủ và nhân viên làm việc trên các tàu thủy Pháp bãi công. Nhờ những chuyến đi đến Pháp, đến Trung Quốc, các thủy thủ có điều kiện tiếp xúc với phong trào cách mạng thế giới. Những năm 1924 - 1925, được đánh dấu bởi những cuộc bãi công lớn ở Chợ Lớn, Nam Định, Hải Dương, Hà Nội. Tháng 8 năm 1925, một cuộc bãi công chính trị nổ ra ở xưởng đóng tàu Sài Gòn. Hai tàu chiến của Pháp trên đường sang Trung Quốc ghé vào sửa chữa, công nhân viên của xưởng đóng tàu liền phát động phong trào bãi công và lãn công để hỗ trợ cho cuộc cách mạng Trung Quốc. Ngoài ra, công nhân còn đòi chủ phải tăng lương 20%, phải thu nhận lại những công nhân đã bị đuổi vì đòi được nghỉ giải lao 30 phút trong ngày. Cuộc bãi công này đã huy động hàng nghìn công nhân trong 8 ngày liền và kết thúc bằng một thắng lợi vang dội. Hai chiếc tàu kia chỉ có thể rời bến Sài Gòn sau 4 tháng bất động. Một trong số những người lãnh đạo cuộc bãi công là Tôn Đức Thắng, người đã tham gia rất nhiều phong trào ở Pháp bên cạnh công nhân Pháp và năm 1918, đã tham gia cuộc binh biến của thủy thủ Pháp được điều động đến Hắc Hải để đánh lại cách mạng Xô Viết. Sau này, Tôn Đức Thắng trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhìn chung trong cả nước, những năm 1925 - 1926, được đánh dấu bởi ba phong trào lớn đòi thả cụ Phan Bội Châu, Nguyễn An Ninh và cuộc biểu tình toàn quốc rộng lớn nhân dịp đám tang cụ Phan Chu Trinh. Chính quyền thực dân buộc phải ân xá cho Phan Bội Châu, trước đó đã bị kết án tử hình. Hàng chục nghìn người đã biểu tình vào những dịp đó, đặc biệt ở các thành phố lớn, nhất là Sài Gòn.

Phải luôn nhớ đến tính chất dã man tàn bạo của sự đàn áp thực dân thì mới đánh giá đúng được tinh thần dũng cảm, sự trưởng thành về chính trị của quần chúng và các nhà lãnh đạo đã tổ chức các cuộc bãi công và biểu tình đó.