← Quay lại trang sách

Sự tập hợp lại các lực lượng yêu nước và cách mạng

Trước phong trào yêu nước sôi sục, chính quyền thực dân tìm cách đưa ra một vài cải cách nhỏ nhằm xoa dịu cơn thịnh nộ của nhân dân và để dụ dỗ một số phần tử cơ hội. Đảng viên xã hội Varenne đã ra sức làm công việc này. Duy nhất chỉ có ''Đảng lập hiến'' của giới đại điền chủ ở Sài Gòn bằng lòng với những mẩu cơm thừa canh cặn đó. Còn những người yêu nước và cách mạng thì biết rằng đã đến lúc phải tổ chức lực lượng quần chúng đông đảo đã bắt đầu thức tỉnh để đưa họ vào cuộc đấu tranh. Đó là điều kiện không thể thiếu của mọi sự nghiệp tiến bộ và giải phóng. Từ năm 1925 trở đi, xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước và cách mạng mới.

Tại Quảng Châu, lấy Tâm tâm xã làm hạt nhân Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (chúng tôi sẽ gọi tắt là tổ chức ''Thanh niên''). Những thanh niên từ trong nước ra hoặc từ cộng đồng người Việt sống ở Thái Lan được gửi sang Trung Quốc theo học một khóa đào tạo cách mạng do Nguyễn Ái Quốc phụ trách; sau đó họ được phái trở về nước để gây cơ sở cho phong trào cách mạng. Tổ chức Thanh niên có ưu thế hơn các tổ chức khác ở chỗ họ có một lý thuyết và những nguyên tắc tổ chức rõ ràng, giúp cho các cán bộ đã được đào tạo nhanh chóng nắm được đông đảo quần chúng và tạo dựng được những tổ chức vững vàng. Các chiến sĩ của Thanh niên học lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin do Nguyễn Ái Quốc tóm lược và vận dụng vào điều kiện Việt Nam trong một cuốn sách nhỏ Đường kách mệnh . Ba nguyên lý hoàn toàn mới đối với phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam được nêu rõ như sau:

1. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng công nông chứ không phải của một vài vị anh hùng, vì vậy cần phải tổ chức quần chúng và lôi cuốn họ vào cuộc chiến đấu.

2. Cách mạng phải được một đảng Mác-xít Lêninnit lãnh đạo mới đi đến thắng lợi; do đó, cần phải lập cho được một đảng kiểu mới.

3. Cách mạng dân tộc phải hội nhập với cách mạng thế giới, nhân dân Việt Nam phải phối hợp hành động với giai cấp vô sản thế giới, do đó cần thiết phải thống nhất hành động với đường lối của Quốc tế thứ III.

Thanh niên là tổ chức duy nhất có thể lập ra một cơ quan ngôn luận của mình - một tờ báo bí mật được xuất bản đều kỳ. Các hội viên của Thanh niên được hướng dẫn đi tìm việc làm ở các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, hoạt động sát cánh với nông dân, sinh viên, tiểu thương, trí thức. Những khái niệm về học thuyết Mác - Lênin cũng như kinh nghiệm thực tiễn của họ còn rất sơ lược. Thế nhưng họ tiến hành có kết quả việc phê phán những quan niệm cải lương hoặc sô vanh của giai cấp tư sản và tiểu tư sản.

Thử thách quan trọng đầu tiên đối với tổ chức Thanh niên là thất bại của Công xã Quảng Châu tháng Chạp năm 1927. Nhiều hội viên bị bắt, Quốc dân Đảng Trung Hoa gây sức ép với Thanh niên để buộc họ chấp nhận đường lối dân tộc chủ nghĩa. Thanh niên biết cách đương đầu với thử thách và tiếp tục phát triển các mạng lưới tổ chức quần chúng của mình ở Việt Nam, ở Trung Quốc, trong Việt kiều ở Thái Lan. Đến năm 1928, Thanh niên trở thành tổ chức bí mật mạnh nhất trong cả nước.

Đồng thời với Thanh niên , một chính đảng có khuynh hướng mác-xít, Đảng Tân Việt được thành lập trong nước, tập hợp các sinh viên trẻ và các cựu tù chính trị Côn Đảo đã được phóng thích. Đảng cử nhiều đảng viên sang Quảng Châu, trong đó có Trần Phú, để huấn luyện về cách mạng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc và thương lượng về việc thống nhất hai đảng. Đảng Tân Việt sau đó đã xác định một cương lĩnh và điều lệ giống như của Thanh niên .

Ở Nam Kỳ, Nguyễn An Ninh đã lập ra một đảng bí mật, chú trọng tuyển lựa đảng viên trong số các tiểu trí thức ở Sài Gòn. Do tổ chức và cương lĩnh không rõ ràng, đảng này đã không chịu đựng nổi thử thách qua hai lần lãnh tụ của đảng bị bắt: Lần thứ nhất năm 1925, lần thứ hai năm 1928. Khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa biểu hiện chủ yếu qua việc thành lập Việt Nam Quốc dân đảng , xuất phát từ hạt nhân là “ Nam đồng thư xã ” với hoạt động chủ yếu cho đến lúc bấy giờ là xuất bản những cuốn sách yêu nước. Chính quyền thực dân liền cấm nhà xuất bản hoạt động. Chủ trương chọn con đường đấu tranh vũ trang chiếm ưu thế trong nội bộ tổ chức và dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Việt Nam Quốc dân đảng ra đời ngày 25-12-1927. Đảng kết nạp đảng viên chủ yếu trong các giới trí thức, sinh viên, tiểu công chức ở nông thôn và trong số các thân hào thân sĩ yêu nước. Đảng không chú trọng thành lập các tổ chức quần chúng mà tuyển lựa đảng viên trong binh lính nhằm mục đích hoạt động vũ trang. Việt Nam Quốc dân đảng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Quốc dân đảng Trung Hoa, xác định cương lĩnh là thực hiện độc lập dân tộc, thiết lập chính quyền dân chủ, nhưng cương lĩnh xã hội của họ thì vẫn rất mơ hồ. Chịu ảnh hưởng của Quốc dân đảng Trung Hoa, Việt Nam Quốc dân đảng biểu lộ những khuynh hướng chống cộng sản. Cơ sở của đảng chủ yếu ở Bắc Kỳ, còn ở miền Trung và miền Nam thì hầu như không có.

Ở miền Nam, phong trào phát triển rộng lớn nhất là Cao Đài, một hình thức xã hội chính trị- tôn giáo độc đáo, một tổ hợp đa dạng nhiều tôn giáo: đạo Cơ đốc, đạo Phật, đạo Hồi và nhiều giáo lý khác, thờ phụng nhiều vị thần và nhân vật lịch sử khác nhau, từ Chúa Giê-su đến Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Victor Hugo. Những thủ tục lễ bái theo thuyết thông linh cùng tồn tại bên cạnh những nghi thức hành lễ theo kiểu Công giáo, nhưng đặc trưng của đạo Cao Đài trước hết là một hệ thống tôn ti chặt chẽ được lập ra theo mô hình giáo hội công giáo, với một “giáo hoàng” và một đội ngũ tăng lữ được tổ chức rất chặt chẽ. Đạo này có một ''Tòa thánh'' của mình ở Tây Ninh, Nam Kỳ, kết nạp tín đồ đông đảo trong nông dân và tầng lớp tiểu tư sản.

Sở dĩ Cao Đài có ảnh hưởng rộng một phần do tiềm thức tín ngưỡng tôn giáo lưu cữu trong người nông dân chưa chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng, phần nữa, nhờ có một số chính khách nào đó cần ngụy trang cho các hoạt động của mình. Về phía chính quyền thực dân, họ cũng đã cài tay chân vào để vừa lái vừa giám sát phong trào. Tín đồ có đến trên một triệu, hàng trăm nhà thờ được dựng lên. Các hàng giáo phẩm cao nhất phần lớn thuộc về những địa chủ hoặc công chức cấp cao, thường là những phần tử dễ bảo đối với chính quyền thuộc địa.

Sự xuất hiện của tất cả các chính đảng, tổ chức, báo chí kể trên tạo cho phong trào yêu nước một cơ sở hoạt động ngày một vững chắc hơn. Đặc biệt những năm 1927 - 1929, được đánh dấu bằng một loạt cuộc bãi công ở Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn, ở các đồn điền cao su. Ngay cả ở Huế, lúc bấy giờ bị nghẹt thở dưới ách áp bức của chính quyền quân chủ và thực dân sinh viên và học inh cũng hoạt động. Chỉnh quyền thực dân nhanh chóng vứt bỏ chút ít ý định dè dặt của họ về chủ nghĩa tự do mà Varene đề xướng, quay sang đàn áp thẳng tay. Năm 1928, Varene bị thay thế bởi một viên công chức thực dân là Pasquier. Cuộc đụng đầu giữa chính quyền thực dân với các lực lượng yêu nước và cách mạng Việt Nam không còn xa nữa.