← Quay lại trang sách

Sự thành lập Đảng Cộng Sản

Sự phát triển của phong trào đấu tranh dân tộc và xã hội- kinh tế trong các giới công nhân, nông dân, trí thức cùng với việc Việt Nam Quốc dân đảng thất bại rồi bị xóa sổ, hơn bao giờ hết, đòi hỏi phải thành lập một chính đảng có khả năng lãnh đạo phong trào và phối hợp các cuộc chiến đấu. Các hội viên Thanh niên tham gia tất cả các cuộc đấu tranh này đều cảm thấy khẩn thiết phải lập một đảng mác-xít lê-nin-nít. Tháng 3 năm 1929, chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà Nội. Tháng 5 năm 1929, tại Đại hội toàn quốc của Thanh niên, nhiều đại biểu đề nghị thành lập một Đảng Cộng sản. Đại hội không phản đối, nhưng đa số chủ trương hoãn quyết định này để có đủ thời giờ cần thiết tiến hành thật tốt sự chuẩn bị. Đoàn đại biểu của Bắc Kỳ dự đại hội này - những người đã đưa ra đề nghị trên, khi trở về đã tự mình thành lập Đông Dương Cộng sản đảng , tung ra một bản tuyên ngôn, chọn kết nạp đảng viên trong hàng ngũ Thanh niên , ra tờ báo Búa liềm . Đảng thành lập '' Liên hiệp các công đoàn '' cùng một cơ quan báo chí có ảnh hưởng lớn, nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Ủy ban Trung ương của Thanh niên, đến lượt mình, quyết định thành lập '' An Nam Cộng sản đảng ''. '' Đảng Tân Việt '' cũng biến thành một đảng mới: '' Đông Dương Cộng sản liên đoàn ''.

Thế là do sự thúc đẩy của các chiến sĩ cơ sở và do tất yếu lịch sử, ba đảng cộng sản đã lần lượt ra đời. Các tổ chức Thanh niên và Tân Việt sau khi làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình đã nhường chỗ cho những đảng mới . Sự tất yếu và khẩn thiết phải đi đến thống nhất các tổ chức cộng sản.

Tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì một cuộc hội nghị tập họp các đại biểu của ba đảng ở Cửu Long (Trung Quốc). Ngày 3 tháng 2, việc hợp nhất được quyết định, điều lệ của đảng được thông qua cũng như điều lệ của các tổ chức quần chúng: công hội, nông hội, thanh niên cộng sản, hội phụ nữ, cứu tế đỏ.

Đây là một bước ngoặt lịch sử, không chỉ trong lịch sử của giai cấp công nhân, mà cả trong lịch sử của phong trào dân tộc Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam có một chính đảng lãnh đạo được vũ trang bằng lý luận khoa học, nguyên tắc hành động và tổ chức hoàn chỉnh, đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới, có đủ khả năng lôi cuốn quần chúng nhân dân vào một cuộc đấu tranh với nhiều hình thức, xác định được cho dân tộc và cho các giai cấp xã hội khác nhau một cương lĩnh và triển vọng tương lại chính xác. Các tổ chức và chính đảng trước đó thiếu hẳn tất cả những điều này trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

Do cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đều bị đặt trực tiếp dưới một bộ máy cai trị thực dân Pháp, cần phải thống nhất các chiến sĩ cách mạng của cả ba nước trong một đảng.

Tháng 10 năm 1930, phiên họp toàn thể đầu tiên của ủy ban Trung ương Đảng thông qua tên đảng là '' Đảng Cộng sản Đông Dương '' và luận cương chính trị do Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng trình bày. (*)

Xuất phát từ sự phân tích cụ thể xã hội thuộc địa và nửa phong kiến Việt Nam, cương lĩnh chính trị của đảng cho rằng cách mạng Việt Nam về thực chất và một cuộc cách mạng dân chủ tư sản nhưng do giai cấp công nhân lãnh đạo và phải tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn đầu, nó phải đảm trách hai nhiệm vụ chủ yếu:

- Đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp, giành lại độc lập dân tộc.

- Đấu tranh chống chế độ phong kiến, đưa lại ruộng đất cho nông dân.

Hai nhiệm vụ ấy - phản đế và phản phong, gắn chặt với nhau. Lần đầu tiên một chính đảng gắn một cách rõ ràng vấn đề dân tộc với vấn đề nông dân, trong khi các đảng tư sản và tiểu tư sản không nêu lên được một cương lĩnh ruộng đất rõ ràng, đồng thời tỏ ra bất lực không thể lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Luận cương chính trị vạch rõ rằng động lực chủ yếu của cách mạng và công nhân và nông dân. Những nguyên tắc chỉ đạo hành động là lôi cuốn quần chúng đấu tranh vì những quyền lợi hàng ngày của họ, nhằm nâng cao ý thức chính trị và năng lực tổ chức của họ để họ có thể, khi điều kiện chín muồi, phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và thành lập một nhà nước công - nông. Điều kiện cơ bản của thắng lợi là phải có một đảng mác-xít lê-nin-nít lãnh đạo có khả năng đề ra một đường lối chính trị đúng, duy trì trong hàng ngũ của mình kỷ luật và sự thống nhất quan điểm chặt chẽ luôn luôn gắn mình với quần chúng, trung thành đến cùng với cách mạng.

Trên cơ sở đó, Đảng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu phức tạp và ác liệt mười lăm năm sau mới đi đến thắng lợi, giành được chính quyền.

Bản chất và những nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương

(Trích ''Luận cương chính trị'' do Đảng Cộng sản đưa ra khi thành lập Đảng.)

Ban đầu là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, vì cách mạng không thế trực tiếp giải quyết những vấn đề về tổ chức của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế của đất nước còn rất yếu kém; những tàn dư của chế độ phong kiến còn nhiều; tương quan lực lượng giữa các giai cấp chưa nghiêng về phía giai cấp vô sản vả chăng sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc vẫn còn. Căn cứ vào những điều kiện trên, cách mạng trong giai đoạn hiện nay chỉ có thế là cách mạng ruộng đất và chống đế quốc.

Cách mạng dân chủ tư sản là thời kỳ chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Với thắng lợi của cuộc cách mạng này, một Chính phủ công - nông được thành lập, nền công nghiệp dân tộc sẽ có thể phát triển; các tổ chức vô sản sẽ lớn mạnh, sự lãnh đạo của giai cấp vô sản sẽ được củng cố và tương quan lực lượng giữa các giai cấp sẽ nghiêng về giai cấp vô sản. Bấy giờ cuộc đấu tranh sẽ phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng, đẩy cách mạng dân chủ tư sản tiến lên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này sẽ là thời kỳ của cách mạng vô sản trên toàn thế giới và của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Nhờ có chính quyền vô sản ở các nước khác, Đông Dương sẽ phát triển để tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.

Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chủ yếu trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nhưng cuộc cách mạng này chỉ giành được thắng lợi khi được giai cấp vô sản lãnh đạo.

Cách mạng dân chủ tư sản chủ yếu một mặt là xóa bỏ những tàn dư của chế độ phong kiến, loại bỏ những phương thức bóc lột tiểu tư bản và thực hiện đến cùng cuộc cải cách ruộng đất; mặt khác là lất đổ chế độ đế quốc Pháp và làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt đó của cuộc đấu tranh gắn bó mật thiết với nhau, bởi vì chỉ bằng cách lật đổ chế độ đế quốc thì mới xóa bỏ được giai cấp địa chủ và thực hiện thành công cuộc cách mạng ruộng đất và chỉ bằng cách triệt bỏ chế độ phong kiến thì mới có thể lật đổ được chủ nghĩa đế quốc.

Muốn thực hiện các nhiệm vụ chủ chốt đó, cần thiết phải lập chính quyền các Xô viết công - nông. Chỉ có chính quyền đó mới có thể là công cụ hùng mạnh để lật đổ đế quốc phong kiến địa chủ, đưa lại ruộng đất cho nông dân, xây dựng một pháp chế bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản.

Những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng dân chủ tư sản là:

- Lật đổ chế độ đế quốc Pháp, chế độ phong kiến, địa chủ.

- Thiết lập chính quyền công - nông.

- Tịch thu tất cả ruộng đất của các địa chủ nước ngoài, địa chủ bản xứ và của các giáo hội, giao lại cho trung nông và bần nông, quyền sở hữu thuộc về Nhà nước công - nông.

- Quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp lớn của tư bản nước ngoài.

- Xóa bỏ mọi thứ thuế hiện có, lập ra thuế luỹ tiến.

- Ban bố ngày làm việc 8 giờ, cải thiện đời sống của công nhân và quần chúng lao động.

- Giành lại cho Đông Dương quyền độc lập hoàn toàn, thừa nhận quyền tự quyết của các dân tộc.

- Thành lập một đội quân công - nông.

- Thực hiện bình đẳng nam - nữ.

- Ủng hộ Liên Xô, liên minh với vô sản thế giới, với phong trào cách mạng ở các thuộc địa và nửa thuộc địa.