Phong trào văn học 1930 - 1945
Một cái nhìn tổng quát nhanh chóng vào sự tiến triển của văn học sau năm 1930, giúp chúng ta hoàn chỉnh bức tranh lịch sử và xã hội của nước Việt Nam khi nổ ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ II, rồi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Những biến đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam đặc biệt sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ I, không khí chính trị sôi sục trong những năm 1930-1945, đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự tiến triển của nền văn học Việt Nam. Một nền văn học hiện đại đã ra đời, tách hẳn với những hình thức truyền thống, đáp ứng nhu cầu của một công chúng mới, với tác giả là những văn sĩ khác với các nhà nho cũ.
Các kỳ thi tuyển quan lại đã bị bãi bỏ năm 1918 (ở Bắc Kỳ: năm 1915). Chữ quốc ngữ sử dụng bảng chữ cái la tinh, đã thay thế thứ chữ tượng hình trước đây (chữ Hán). Thế hệ trí thức mới không còn biết đến những tác phẩm cổ điển Trung Quốc, nhưng chịu ảnh hưởng của các tác giả châu Âu, đặc biệt là Pháp. Kỹ thuật in ấn hiện đại cho phép phổ biến rộng rãi các tác phẩm văn học dễ dàng hơn kỹ thuật in bản khắc gỗ xưa kia; việc xuất bản báo chí hằng ngày và định kỳ tạo điều kiện cho nhiều thể loại mới xuất hiện. Những lực lượng mới, những hoài bão mới tìm cách đổi mới hình thức biểu đạt. Công chúng độc giả cũng thay đổi về chất. Các nhà nho xưa kia viết cho một thiểu số người có học, hoặc cho tầng lớp nông dân. Các nhà văn hiện đại sẽ viết cho một công chúng thị dân - học sinh, sinh viên, công chức, nhân viên, trí thức.
Văn chương truyền thống - trong đó thơ ca chiếm ưu thế, được khuôn lại trong những niêm luật khắt khe; tư tưởng thường được diễn đạt một cách cô đúc, chỉ khơi gợi ý tứ và thường giản lược các liên từ diễn tả mối quan hệ giữa các ý với nhau. Các tác giả hiện đại phá vỡ mọi quy tắc và tập quán đó. Sự bứt phá ấy diễn ra khá ồn ào trong lĩnh vực thơ ca. Trong những năm 30, đã có nhiều cuộc bút chiến kịch liệt giữa phái thơ cũ và phái thơ mới. Tất nhiên trường phái thơ cũ thua, nhưng không vì thế mà có thể nói rằng thi ca Việt Nam đã rũ sạch mọi quy tắc. Có điều là các quy tắc đã trở nên mềm mại hơn, âm vận và nhịp điệu có thể kết hợp với nhau một cách tự do hơn để phù hợp với những diễn biến tâm tư quanh co thầm kín hơn, riêng tư hơn.
Văn xuôi chiếm ưu thế trong việc phản ánh các khía cạnh của một xã hội đang vận động, nhiều thể loại mới - tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, kịch hiện đại xuất hiện. Lịch sử, triết học, đạo đức học, tiểu luận, ngày xưa viết bằng chữ Hán, nay viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Văn xuôi mất đi tính nhịp điệu, tính biền ngẫu giữa các mệnh đề, lô-gíc của từ được thể hiện rõ ràng hơn.
Mọi biến đổi ấy xuất hiện trong những năm 20, đến giai đoạn sau 1930, đã hoàn toàn chiếm lĩnh trận địa. Các tác giả của những năm 20 vẫn còn đậm nét văn hóa truyền thống, nhưng thế hệ kế tiếp chủ yếu mang tính hiện đại. Các sự kiện chính trị có tác động rất sâu sắc đến tất cả mọi người.
Đối với nhiều nhà văn thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản, sự thất bại hoàn toàn của Quốc dân đảng, cuộc khủng hoảng kinh tế và sự đàn áp đẫm máu của chính quyền thực dân đã bịt hết mọi hy vọng cách tân. Họ sa vào một trào lưu lãng mạn bi quan xuất phát từ sự vùng dậy của giai cấp tiểu tư sản thành thị chống chế độ thuộc địa và các cấu trúc phong kiến đã lỗi thời, nhưng đó là sự vang dậy yếu ớt và bị đè bẹp không thương tiếc. Lúc đầu, văn học còn tìm được một đề tài bổ ích trong những đòi hỏi của cá nhân chống lại phép tắc phong kiến. Tự do yêu đương, phản kháng hôn nhân cưỡng ép, ước mơ về một cuộc sống tự do... là nguồn cảm hứng cho những trang văn học đầy tính thần cao thượng, những bài thơ ít nhiều có sinh khí, những tiểu thuyết sinh động. Thế nhưng, chẳng mấy chốc, những giấc mơ như vậy về tự do, về sự thay đổi đều tan vỡ trước hiện thực thuộc địa và phong kiến. Trong vài ba năm, chủ nghĩa lãng mạn đã trở nên đen tối, một mối “sầu vạn cổ” như một tấm màn đã trùm lên thơ ca và tiểu thuyết. Ách chiếm đóng của Nhật Bản chồng thêm trên chế độ thuộc địa đã bịt kín mọi triển vọng giải phóng và đây trường phái lãng mạn sa vào xu hướng thần bí.
Sau năm 1930, một tao đàn gồm các nhà thơ lãng mạn xuất hiện: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Phạm Huy Thông, Huy Cận, v.v... được lớp thanh niên mới say sưa chào đón. Cái ''tôi'' chiếm được chỗ đứng trong thơ ca vang lên những giọng điệu mới. Tiểu thuyết và truyện ngắn, đặc biệt của Khải Hưng và Nhất Linh, chủ yếu thể hiện những bi kịch gia đình do sự đối lập giữa lớp thanh niên mới với bố mẹ của họ vẫn bảo thủ những quan niệm cũ. Gia đình phong kiến bị phê phán gay gắt. Tình yêu trở thành đề tài trọng tâm của các tác phẩm, thứ tình yêu bị trắc trở vì những cấm đoán xã hội lỗi thời, buộc phải đấu tranh nhưng thường là thua cuộc.
Sau một thời kỳ khai hoa ngắn ngủi, trường phái lãng mạn nhanh chóng tàn lụi, mất dần ưu thế, nhường chỗ cho những trào lưu văn học khác có sức sống mạnh mẽ hơn. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã lay động đông đảo quần chúng, đã vô sản hóa nhiều trí thức. Sự thành lập Đảng Cộng sản đã đưa một chất men mới vào đời sống văn hóa và tư tưởng. Các chiến sĩ của Đảng đã dấy lên trên báo chí những cuộc tranh luận về những vấn đề nghệ thuật và văn chương, nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh, được đông đảo công chúng say sưa theo dõi. Hoạt động của Đảng, sự tham gia của những người cầm bút vào phong trào dân tộc, dân chủ rộng lớn trong những năm 1936 - 1939, đã hướng các tác giả đi vào đời sống xã hội. Một dòng hiện thực chủ nghĩa nổi lên mạnh mẽ, làm lu mờ dần dòng văn học lãng mạn. Những tiểu thuyết của Ngô Tất Tô, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, v.v... những truyện ngắn của Nam Cao miêu tả một cách sâu sắc những cảnh cơ cực và những cuộc đấu tranh của nông nhân chống bọn quan lại và cường hào. Những cuộc đấu tranh của công nhân và lớp người thất cơ lỡ vận bị gạt ra ngoài lề xã hội ở các thành thị đã cung cấp chất liệu cho rất nhiều tiểu thuyết Nhà thơ Tú Mỡ đã tấn công vào bọn cầm quyền đương thời trong những bài thơ trào phúng cay độc.
Thế nhưng, việc kiểm duyệt gắt gao đã hạn chế rất nhiều phạm vi hoạt động của các nhà văn hiện thực; có thể công kích chế độ quan lại, nhưng chớ đụng đến chế độ thực dân. Vì vậy, bên cạnh mảng văn học công khai, còn có cả một dòng văn học bí mật phần lớn là của những cây bút cách mạng đang trực tiếp dấn thân vào hành động. Nhiều tác phẩm khuyết danh cũng được lưu truyền. Đã thấy rõ sự nở rộ của thơ ca trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Những chiến sĩ bị cầm tù sau năm 1930, trong thời gian ở tù, đã sáng tác nhiều bài thơ ca ngợi lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và biểu thị niềm tin của họ vào thắng lợi cuối cùng. Tinh thần lạc quan của những người cách mạng lan tỏa lên toàn bộ nền văn học.
Năm 1938, một nhà thơ trẻ sinh năm 1920, một chiến sĩ cộng sản, bị tù từ 1939 đến 1942, cho ra tập thơ “ Từ ấy ” trong đó có hai câu nhanh chóng in sâu vào ký ức của thanh niên:
“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim... ''
Chủ nghĩa lãng mạn cách mạng ra đời thay thế chủ nghĩa lãng mạn bi quan. Những đề tài yêu nước và cách mạng nổi bật lên trong dòng văn học bí mật và văn học ở các khu giải phóng trong thời kỳ chiếm đóng của Nhật Bản, trong khi văn học công khai được Pháp và Nhật cho phép lại rơi vào chủ nghĩa bí hiểm.
Lại thêm một sự kiện quan trọng thổi luồng gió mới thúc đẩy trào lưu văn học cách mạng: Năm 1943, Đảng Cộng sản công bố Đề cương văn hóa, chủ trương xây dựng một nền văn hóa “dân tộc đại chúng và khoa học”. Năm 1944, những nhà văn và các nhà văn hóa có danh tiếng thành lập ''Hội văn hóa cứu quốc'' nằm trong Mặt trận Việt Minh. Một thời kỳ mới mở ra cho nên văn học Việt Nam, dấn thân theo đường cách mạng, gắn chặt với cuộc đấu tranh dân tộc và nhân dân.
Cần đặc biệt nêu lên một tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong những năm 1942 - 1943, khi bị quân của Tưởng Giới Thạch bắt giam ở miền Nam Trung Quốc: Ngục trung Nhật Ký. Tập nhật ký này là một sưu tập những bài thơ viết bằng chữ Hán, tràn đầy một niềm lạc quan cách mạng bất tận giàu chất thơ và chất hài hước vô song.
Cũng phải lưu ý rằng các luận văn chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như của các nhà lãnh đạo Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là những mẫu mực xuất sắc của văn xuôi mới Việt Nam.