Tình hình Việt Nam khi chiến tranh thế giới thứ II sắp bùng nổ
Kể từ 1938, tình hình quốc tế tiến triển rất nhanh. Trước sự mềm yếu, thậm chí có cả sự đồng lõa của các Chính phủ phương Tây, các lực lượng phát xít ở châu Âu cũng như ở châu Á chuyển sang tấn công. Đầu năm 1939, quân Nhật chiếm đảo Hải Nam, cách Hải Phòng chưa đầy 300 km. Ở Trung Quốc, quân đội của chúng tiến sát biên giới Đông Dương. Cuộc xâm lược của Nhật Bản gần kề, cần phải làm gì đây?
Ở Pháp, Chính phủ Mặt trận bình dân đã buộc phải nhường chỗ cho một Chính phủ phái hữu; Chính phủ này vừa chuẩn bị chiến tranh, vừa ra tay xóa bỏ những cải cách đã đạt được. Ngay từ đầu năm 1939, phong trào cách mạng ở Đông Dương lại bị đàn áp và bè lũ thực dân tìm cách xóa bỏ mọi quyền tự do dân chủ. Năm 1938, nhà cầm quyền thuộc địa ban hành trái phiếu vay 40 triệu đồng bạc Đông Dương, nói là để mua sắm thiết bị chiến tranh bên Pháp. Đầu năm 1939, họ thu thêm 10 triệu đồng tiền thuế để xây dựng các sân bay và để chi tiêu cho nhiều khoản chuẩn bị chiến tranh khác. Chính phủ Pháp quyết định Đông Dương phải cung cấp cho Pháp một đội lính chiến và lính thợ gồm 1,5 triệu người, nhiều gấp 15 lần số đã cung cấp cho cuộc chiến tranh 1914 - 1918.
Tháng 10 năm 1938, trong một bản hiệu triệu toàn dân, Đảng Cộng sản Đông Dương tố cáo chính sách thỏa hiệp với phát xít của Pháp và Anh, lưu ý mọi người đến nguy cơ xâm lược của Nhật Bản, và kêu gọi tất cả các chính đảng, các nhóm, các tầng lớp xã hội bao gồm cả những người Pháp dân chủ, đoàn kết trong Mặt trận dân chủ Đông Dương để đấu tranh vì tự do, hòa bình và các lợi ích hàng ngày của quần chúng nhân dân và bảo vệ đất nước.
Mặt trận bảo vệ Đông Dương chống xâm lược Nhật Bản đi kèm với cuộc đấu tranh chống các công ty lớn của thực dân, chông lại các thủ đoạn đánh lạc hướng của chính quyền thuộc địa. Quả thế, chính quyền thực dân đã quyết định sáp nhập Bắc Kỳ vào với Trung Kỳ dưới cái ô của triều đình Huế phô trương hành động này như một bước tiến tới sự thiết lập lại một nước Việt Nam thống nhất. Thực ra, họ muốn lôi cuốn dân chúng vào công cuộc chống Nhật. Thủ đoạn này không lừa được ai, một chiến dịch lớn được phát động để làm cho mọi người thấy rằng, hành động trên đây chỉ đi đến chỗ là giảm thiểu hơn nữa chút ít quyền tự do dân chủ còn lại ở Bắc Kỳ, đặt xứ này trở lại dưới uy quyền của nền quân chủ đã hoàn toàn nằm trong tay bọn thực dân. Tờ báo Dân chúng, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản xuất bản ở Sài Gòn đã viết rằng, con đường tái thống nhất không thể nào thông qua việc hợp nhất Bắc Kỳ và Trung Kỳ dưới quyền của chế độ quân chủ, mà bằng một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ để giành các quyền tự do dân chủ, chống lại bọn thực dân phản động và chống lại sự xâm lược của Nhật Bản. Trước sự chống đối kiên quyết đó, chính quyền thuộc địa phải hủy bỏ quyết định của họ.
Như vậy là vào thời điểm cuộc Chiến tranh thế giới thứ II sắp nổ ra, quần chúng nhân dân Việt Nam đang trải qua một cuộc vận động chính trị sôi sục, nhân dân Việt Nam đã có một chính đảng được tổ chức vững chắc và dày dạn kinh nghiệm. Những nhân tố đó sẽ đóng vai trò quyết định trong sự tiến triển của các sự kiện về sau. Tình thế vậy là thuận lợi hơn nhiều so với thời điểm ở ngưỡng cửa cuộc Chiến tranh thế giới thứ I.