Một cổ hai tròng Pháp - Nhật
Như vậy là từ năm 1941 đến năm 1945, nước Việt Nam đã chịu đựng chế độ thuộc địa cũ của Pháp cộng thêm ách chiếm đóng của Nhật. Pháp và Nhật đồng tình với nhau bòn rút đến mức tối đa các tài nguyên của đất nước này, “giữ gìn trật tự” và tập trung nỗ lực chống lại phong trào cách mạng. Tuy nhiên, sự cấu kết ấy không cản trở mỗi bên thực hiện chính sách riêng nhằm củng cố vị trí của mình cho những cuộc đối đầu về sau. Việc khai thác kinh tế được tăng cường để vừa thỏa mãn những lợi ích của Pháp, vừa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế chiến tranh Nhật Bản. Việc đàn áp tàn bạo càng nhân lên gấp bội, trong khi nhiều thủ đoạn chính trị được tung ra nhằm lừa bịp dư luận và lôi kéo các phần tử Việt Nam phản động hoặc ngây thơ về chính trị.
Đô đốc Decoux được Chính phủ của Pháp cử sang làm toàn quyền Đông Dương, thi hành chính sách hai mặt, vừa chuyên chế vừa mị dân. Cuối năm 1940, một vài thứ hội đồng trước đó được bầu ra nhằm phết lên chế độ thuộc địa một nước sơn dân chủ, bị xóa bỏ và mọi quyền hành đều tập trung vào tay viên toàn quyền và nhất là những cơ quan an ninh đầy quyền uy. Chính quyền Decoux cũng chú ý khuyến khích những hoạt động văn hóa nhằm tuyên truyền sự trung thành với nước Pháp, khôi phục những quan niệm phản động của chủ nghĩa Pétain cũng như của Khổng giáo. Nhiều trường học mới được mở và số học sinh sau năm 1942, đã từ 450.000 lên 700.000. Một cuộc quyên góp được tổ chức để xây dựng khu học xá Hà Nội, trong khi các quan lại, địa chủ và tư sản Việt Nam được khuyến khích thành lập những quỹ hỗ trợ cho các sinh viên nghèo túng. Chính quyền thuộc địa tìm cách nắm quyền lãnh đạo phong trào xóa nạn mù chữ cho đến lúc bấy giờ vẫn do những người yêu nước đảm đương. Chúng tổ chức những cuộc thi văn chương, triển lãm hội họa, phát những giải thưởng nhằm đề cao nền văn hóa Pháp.
Chính quyền thuộc địa đặc biệt chú ý lồng ý đồ chính trị vào tầng lớp thanh niên, khi họ tham gia những tổ chức thể thao, những tập hợp bán quân sự hoặc tổ chức hướng đạo. Chúng cho phép công chức được chơi thể thao vào chiều thứ bảy hàng tuần, ban cho họ một vài thứ lợi lộc, tăng thêm lương và trợ cấp, chuyển một số sang ngạch Tây.
Chúng còn cho phép thanh niên và công chức được nói đến ''tinh thần yêu nước'' với điều kiện đấy là thứ ''yêu nước bản xứ'' nằm trong khuôn khổ sự trung thành đối với nước Pháp.
Tất cả những biện pháp đó không mảy may thay đổi thực chất chính sách của Pháp là hoàn toàn phục tùng kẻ chiếm đóng Nhật Bản và đàn áp tàn bạo phong trào dân tộc Việt Nam.
Người Pháp phải chịu để cho quân đội Nhật Bản kéo vào Bắc Kỳ, rồi lại phải chịu nhượng 70.000 km2 lãnh thổ Campuchia cho Thái Lan, đồng minh của Nhật Bản. Hiệp ước gọi là “phòng thủ chung” được ký ngày 9-12-1944, thực chất là sự thừa nhận cho Nhật Bản chiếm đóng toàn bộ Đông Dương. Từ đấy, Đông Dương trở thành một căn cứ quân sự của Nhật và là nơi cung cấp nguyên liệu cho nền kinh tế nhật Bản.
Trước hết, chính quyền thuộc địa ra sức tiếp tế gạo cho Nhật Bản: 585.000 tấn năm 1941, 973.000 tấn năm 1942, 1.023.000 tấn năm 1943, 900.000 tấn năm 1944. Lúc đầu Nhật trả bằng vàng hoặc bằng hàng công nghiệp, nhưng rồi dự trữ của Nhật cạn đi nhanh chóng và từ tháng 12 năm 1942, Nhật trả bằng đồng ''yên đặc biệt'', tức là một thứ tín phiếu quân sự hoàn toàn vô giá trị.
Thực ra, để trang trải những chi phí của quân đội Nhật chính quyền thực dân đã cung cấp tiền bằng cách cho in rất nhiều giấy bạc ngân hàng: 723 triệu đồng Đông Dương, tức là gấp 7 lần ngân sách Đông Dương năm 1939. Năm 1944, khối tiền tệ lưu thông lên đến 1.052 triệu đồng (năm 1939 là 216 triệu). Giá cả cứ theo đó mà tăng.
Chính quyền thuộc địa vơ vét một loạt sản phẩm: xi măng, đay, đường, dầu nhờn, than... để đáp ứng nhu cầu của người Nhật và cũng nhằm thiết lập độc quyền mua bán một số lớn hàng hóa. Trong thời gian này, các nguyên liệu, trang thiết bị, phương tiện vận tải đều thiếu, không đủ làm cho nền kinh tế hoạt động. Chỉ riêng các công ty lớn của thực dân Pháp hưởng lợi lớn từ quan hệ mậu dịch mới này đối với Nhật Bản. Như vậy, sự quy phục người Nhật của bọn thực dân Pháp là có lãi, ít ra là một số trong bọn chúng được hưởng lợi.
Gánh nặng nhất đối với nhân dân là việc bắt buộc phải nộp thóc gạo. Ngay cả Bắc Kỳ là nơi thiếu lương thực ghê gớm cũng buộc phải giao nộp: 130.205 tấn năm 1943, 186.130 tấn năm 1944. Dù mùa màng được hay mất, mỗi địa phương phải nộp một lượng thóc theo tỷ lệ diện tích canh tác với giá rẻ mạt 19 đồng/tạ. Trường hợp mất mùa, để có thóc nộp, nhân dân phải mua thóc trên thị trường với giá 54 đồng/tạ. Để cung cấp bao đựng cho Nhật, nhân dân buộc phải nhổ lúa để trồng đay trên những diện tích lớn. Năm 1944, khi bom Mỹ làm đứt đoạn việc chở than vào Sài Gòn, bè lũ Pháp-Nhật đã dùng gạo và ngô làm chất đốt ở các trung tâm điện lực. Vì lợi ích riêng của chúng, cả Pháp và Nhật lùng vét gạo thóc để tích trữ. Trong khi đó chẳng có chút cải tiến nào cho nông nghiệp, các mạng lưới thủy nông không được bảo quản. Chỉ cần một thiên tai nhỏ là đủ gây ra đói kém và trận đói khủng khiếp đã xảy ra. Bắt đẩu từ năm 1943, nạn đói trầm trọng dần kể từ năm 1944.
Trong khi hoàn toàn đồng tình với chính quyền thuộc địa Pháp khai thác đến cùng kiệt tài nguyên của đất nước này và đàn áp dã man mọi hoạt động cách mạng, người Nhật vẫn tiếp tục thi thố những mánh khóe mị dân. Họ giương mồi ''độc lập dân tộc" sẽ được giành lại cho Việt Nam nhờ sự giúp đỡ của Nhật trong khuôn khổ khối đoàn kết giữa những người châu Á chống lại người da trắng và một khu vực thịnh vượng chung Á. Đặc biệt họ tìm cách lôi cuốn những tay chân hoặc với danh nghĩa cá nhân như Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Sâm, hoặc được tổ chức thành nhóm nhỏ như Đảng Đại Việt ở Bắc Kỳ. Tuy vậy cho đến khi kết thúc chiến tranh, điều quan trọng hơn đối với người Nhật Bản là việc ''duy trì trật tự'' ở Đông Dương với sự giúp đỡ của Pháp chứ không phải là việc ủng hộ một nhóm bù nhìn nào đó. Khi sức ép của Pháp quá mạnh thì Nhật chọn cách đưa người của họ ra nước ngoài để tránh gây xung đột với người Pháp. Ngay năm 1944, sau khi Chính phủ Vi-si (Vychy) của Pháp sụp đổ, người Nhật vẫn tiếp tục chính sách ấy.