← Quay lại trang sách

Sự ra đời của Việt Minh

Dưới cái ách hai tròng Pháp - Nhật, toàn bộ dân chúng điêu đứng vì nạn đói khổ ngày càng tăng. Giá cả từ năm 1940 đến năm 1944, đã tăng 400%, trong khi lương bổng chỉ tăng 20%. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nông dân bị đói, còn ở Nam Kỳ hàng triệu người phải mặc rách rưới, thậm chí phải dùng lá cây để che thân. Phú nông và địa chủ buộc phải bán rẻ sản phẩm của mình, các nhà buôn và các nhà công nghiệp thiếu nguyên liệu, thiếu trang thiết bị, lại bị thiệt hại do quy chế độc quyền mà nhà nước thực dân áp đặt, đều tỏ ra bất bình. Chỉ những công ty lớn của thực dân và những kẻ buôn bán chợ đen, đầu cơ chuyên nghiệp là có lợi.

Trong khi một số người yêu nước lúc đầu còn nuôi ảo tưởng về khả năng giúp đỡ của Nhật Bản, Đảng Cộng sản đã nhạy bén tố giác ngay lập tức hiểm họa Nhật Bản và đưa cuộc đấu tranh đi đúng hướng. Tháng 5 năm 1941, tại hang Pắc Bó (tỉnh Cao Bằng), Hồ Chí Minh triệu tập cuộc họp toàn thể ủy ban trung ương Đảng lần thứ 8, quyết định cách mạng Việt Nam dứt khoát đứng vào phe chống phát xít thế giới mà trụ cột vẫn là Liên Xô. Ủy ban Trung ương nhận định rằng, chủ nghĩa phát xít Hítle nhất thiết sẽ tấn công Liên Xô và như vậy tức là sẽ bị tiêu diệt. Chiến tranh thế giới sẽ kết thúc với việc thành lập nhiều nước xã hội chủ nghĩa mới. Chính là phải từ viễn cảnh đó mà xác định chiến lược của phong trào cách mạng Việt Nam.

Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là giải phóng đất nước khỏi ách thông trị Pháp - Nhật đang đè nặng lên cả dân tộc, sự nghiệp giải phóng dân tộc phải đặt lên trước mọi tính toán khác; lợi ích của tất cả các giai cấp xã hội phải phụ thuộc vào mục tiêu hàng đầu ấy. Phải thực hiện sự đoàn kết dân tộc rộng rãi để đấu tranh chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, phải hình thành một mặt trận dân tộc tập hợp mọi giai cấp và tầng lớp xã hội, các đảng phái, các nhóm chính trị và tôn giáo, chủ trương tịch thu ruộng đất của thực dân và bọn phản động để chia cho nông dân nghèo, giảm tô, giảm tức, tiến hành việc chia công điền một cách công bằng; tất cả các biện pháp này phải được áp dụng từng bước nhằm thực hiện khẩu hiệu “ruộng đất cho dân cày”. Như vậy, đoàn kết dân tộc có thể được thực hiện mà các lợi ích cơ bản của giai cấp nông dân nghèo vẫn không bị coi nhẹ.

Ủy ban Trung ương quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và để làm được điều đó, phải tăng cường các đơn vị du kích, tự vệ và xây đựng những căn cứ du kích. Nghị quyết của Trung ương nhận định:

“ Cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc chống xâm lược Nhật sẽ tiến triển thuận lợi cho cách mạng Đông Dương. Đến lúc đó, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng, chúng ta sẽ có thể phát động những cuộc khởi nghĩa bộ phận, giành thắng lợi ở nhiều vùng khác nhau để mở đường tiến tới tổng khởi nghĩa... ”

Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng

Trên những cơ sở đó, Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) được thành lập, bao gồm nhiều tổ chức của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ và những đơn vị du kích đang hoạt động ở miền núi. Những tổ chức "cứu quốc'' đó tập hợp mọi tầng lớp xã hội, bao gồm cả những nhà tư sản và địa chủ, miễn là họ đồng ý đấu tranh chống đế quốc Pháp và Nhật. Mặt trận Việt Minh lấy biểu trưng là lá cờ đỏ sao vàng.

Việt Minh phát triển nhanh chóng trong các giai cấp lao động, lớp người chịu đựng cảnh nghèo đói ngày càng trầm trọng hơn dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật. Ách áp bức càng trầm trọng thì càng diễn ra sự phân hóa sâu sắc trong các giới tư sản trí thức và sinh viên, họ dần dần tách khỏi các nhóm thân Nhật hoặc thân Pháp để hướng về Việt Minh. Năm 1943, một nhóm trí thức và tư sản lập ra Đảng Dân chủ để tập hợp một bộ phận tư sản dân tộc. Đảng này gia nhập mặt trận Việt Minh. Cũng trong năm này, Đảng Cộng sản đưa ra “Đề cương văn hóa”, được các giới trí thức quan tâm sâu sắc. Hội Văn hóa cứu quốc ra đời và gia nhập Việt Minh. Tiếp đó là Hội Quân nhân cứu quốc tập hợp những người yêu nước trong hàng ngũ quân đội thuộc địa. Chiến tranh càng phát triển, mâu thuẫn Pháp-Nhật càng gay gắt, hoạt động của Việt Minh trong quần chúng nhân dân càng rộng lớn. Việt Minh cũng tìm cách thu hút những người Pháp dân chủ chống lại sự chiếm đóng của Nhật và chống Chính phủ Vi-si hướng theo cương lĩnh của mình.

Việt Minh không chỉ vạch ra cương lĩnh mà còn dồn sức lôi cuốn quần chúng nhân dân tiến lên hành động trên cả hai bình diện quân sự và chính trị.

Trên bình diện đấu tranh vũ trang, các đơn vị du kích phát động cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, đã buộc phải ẩn tránh hoặc phân tán vào trong dân chúng, nhưng họ vẫn tiếp tục vừa hoạt động chính trị vừa tìm cách thành lập những đơn vị vũ trang. Một hình thức hoạt động mới ra đời: “tuyên truyền vũ trang”. Năm 1943, lực lượng đã đủ để xây dựng lại căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và từ đấy tỏa ra các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, sang cả Vành Yên ở vùng trung du. Cuối năm 1943, các đơn vị ''Tuyên truyền vũ trang'' của Việt Minh hoạt động trong một vùng rộng lớn bao gồm nhiều tỉnh miền núi nằm ở phía bắc sông Hồng.

Năm 1944, tại các tỉnh này đã hình thành một khu giải phóng thực sự; ở miền trung Trung Kỳ và ở Nam Kỳ hình thành những mạng lưới du kích. Tại các tỉnh biên giới Cao Bằng và Lạng Sơn, các tổ chức nhân dân chuẩn bị phát động khởi nghĩa vũ trang. Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về, nhận định kế hoạch này đưa ra quá sớm, ra lệnh hoãn cuộc khởi nghĩa để tăng cường hoạt động chính trị. Lúc đó là tháng 12 năm 1944, thời điểm ''Đội Tuyên truyền giải phóng quân'' ra đời (tên gọi như thế là để nhấn mạnh mặt hoạt động chính trị của đội quân này). Võ Nguyên Giáp được giao quyền chỉ huy. Vừa thành lập xong, trong những ngày 24 và 25 tháng 12 năm 1944, lực lượng vũ trang này đã hạ các đồn Phay Khắt và Nà Ngần, mở đầu một thiên lịch sử đầy vinh quang.

Song song với đấu tranh vũ trang phát triển trên vùng rừng núi, ở đồng bằng và thành phố, những cuộc đấu tranh của nhân dân mở rộng không ngừng. Việt Minh lôi cuốn quần chúng nông dân chống lại việc nhổ lúa và các cây lương thực khác để trồng đay. Ngay từ năm 1943, trong nhiều làng xã, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con tập hợp lại, gậy, cuốc và cào cầm tay để chống việc nhổ lúa.

Một khẩu hiệu khác là chống nộp thóc; ở đâu cũng vậy, quần chúng nông dân đứng lên dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, quyết liệt chống lại bọn Pháp và Nhật. Tại các làng xã, tiếng trống giục giã kêu gọi quần chúng bằng mọi cách chống lại việc trưng thu lúa gạo, gậy gộc và cuốc thuổng đương đầu với súng đạn của quân đội Pháp - Nhật.

Trong các thành phố, công nhân và những người lao động khác đẩy mạnh đấu tranh. Hội Công nhân cứu quốc ra đời, thúc đẩy mạnh mẽ các cuộc bãi công, biểu tình đòi tăng lương, chống việc đối xử tàn bạo. Những cuộc đấu tranh của công nhân kích thích mạnh mẽ hành động của các giới trí thức và sinh viên.

Giữa lúc diễn ra những cuộc đấu tranh sôi sục như vậy, tuyên bố ngày 8 tháng 12 năm 1943 của Đờ Gôn (De Gaulle) hứa hẹn sẽ ''giải phóng Đông Dương'' chẳng gây được mấy tiếng vang.