← Quay lại trang sách

Cách mạng tháng tám

Ở Sài Gòn, các đoàn thể Công nhân cứu quốc, sau ngày 9 tháng 3, tập hợp đến 120.000 người, so với 3.000 người trước đó. Thanh niên Tiền phong do các trí thức tên tuổi như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, luật sư Thái Văn Lung... lãnh đạo, chỉ riêng ở Sài Gòn đã có đến 200.000 người và trong khắp cả Nam Kỳ có trên một triệu người tham gia.

Thế là ngay từ mùa hè năm 1945, trên khắp cả nước, từ Bắc đến Trung, Nam, ở các làng quê và các thành thị, các dân tộc thiểu số ở vùng rừng núi khí thế quần chúng sôi sục dâng lên đến đỉnh cao, các hành động cách mạng - cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang tăng lên đồn dập. Là nhân tố quyết định, Mặt trận Việt Minh lãnh đạo và phối hợp tất cả mọi hành động này trên phạm vi toàn quốc.

Ngày 13 tháng 8, sau khi đội quân Quan Đông bị quân đội Xô Viết đánh tan và hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị ném bom nguyên tử, Nhật Bản đầu hàng. Ngay hôm đó, Đảng Cộng sản Đông Dương họp hội nghị toàn quốc quyết định tung ra các khẩu hiệu:

- Chấm dứt cuộc xâm lược cua nước ngoài.

- Giành lại nền độc lập dân tộc.

- Lập chính quyền nhân dân.

Nhiều chỉ thị được đưa ra để phối hợp hành động chính trị và quân sự tìm cách thuyết phục và làm mất tinh thần kẻ địch, làm cho chúng chịu đầu hàng trước khi bị tấn công và tập trung nỗ lực vào các trung tâm quan trọng nhất.

Ngày 16 tháng 8, Việt Minh triệu tập Đại hội toàn quốc, gồm đại biểu của nhiều đảng phái và tổ chức, các nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau. Đại hội quyết định:

" Giành chính quyền từ tay Nhật và chính quyền bù nhìn trước khi quân đội đồng minh kéo vào Đông Dương để với tư cách là chủ nhân của đất nước, tiếp đón những đạo quân kéo vào giải giáp quân đội Nhật Bản ”.

Vấn đề là phải vượt trước các nước “Đồng minh” (Tưởng Giới Thạch, Anh, Pháp, Mỹ); tất cả đều có ý đồ chiếm đóng Đông Dương vì lợi ích riêng của mình.

Đại hội thông qua một cương lĩnh 10 điểm:

1. Giành chính quyền, thành lập nước Cộng hòa dân chủ Việt Nam trên cơ sở độc lập hoàn toàn.

2. Vũ trang toàn dân. Tăng cường quân đội giải phóng.

3. Tịch thu tài sản của bọn đế quốc và bọn phản quốc; tùy trường hợp, quốc hữu hóa hoặc chia các tài sản ấy cho dân nghèo.

4. Xóa bỏ mọi thứ thuế do Pháp và Nhật đặt ra, thay bằng một chế độ thuế công bằng và nhẹ hơn.

5. Ban bố những quyền cơ bản của nhân dân:

- Quyền con người.

- Quyền sở hữu tài sản.

- Các quyền công dân: phổ thông đầu phiếu, các quyền tự do dân chủ, bình đẳng giữa các nhóm dân tộc, giữa nam và nữ.

6. Chia một cách công bằng công điền công thổ, giảm tô giảm tức, hoãn nợ, cứu tế những người bị nạn.

7. Ban bố pháp chế lao động: ngày làm việc 8 giờ, quy định lương tối thiểu, lập các bảo hiểm xã hội.

8. Xây dựng một nền kinh tế quốc dân độc lập, phát triển nông nghiệp, lập một ngân hàng quốc gia.

9. Xây dựng một nền giáo dục quốc dân: chống nạn mù chữ giáo dục tiểu học bắt buộc, xây dựng một nền văn hóa mới.

10. Duy trì những quan hệ hữu hảo với các nước đồng minh và các nước đang đấu tranh cho nền độc lập của họ.

Một "ủy ban Dân tộc giải phóng'' được bầu ra làm chức năng của Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau đó, Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi vang dội đến đồng bào cả nước:

“ Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên! ”

Ngay sau đó Giải phóng quân tiến về hướng Thái Nguyên và giải phóng thành phố này. Khắp nơi, các tổ chức quần chúng, các đơn vị du kích, tự vệ rùng rùng chuyển động. Đây thực sự là một làn sóng trào dâng lan khắp cả nước, từ ngày 14 đến ngày 25 tháng 8, trong từng làng xã, từng thành phố, quần chúng nhân dân nổi dậy thành cả rừng người, với lực lượng vũ trang yểm hộ, bao vây các trụ sở chính quyền. Bọn quan chức địa phương bỏ trốn hoặc giao nộp chính quyền cho lực lượng cách mạng, các đội quân đồn trú Nhật Bản và binh lính bù nhìn người Việt mất tinh thần, phần lớn tự nguyện để cho quân cách mạng tước vũ khí.

Chỉ vài thành phố không thể giải phóng được: thị xã Lai Châu bị một đạo quân mạnh của Pháp từ Trung Quốc kéo về chiếm đóng và ẩn náu ở đấy khi xảy ra cuộc đảo chính của Nhật, các thị xã Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai trên biên giới Trung Việt do tay chân của Tưởng Giới Thạch chiếm đóng.

Tại ba thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thắng lợi là sự kiện quan trọng có ý nghĩa quyết định. Ở Hà Nội, bọn tay sai thân Nhật chống lại phong trào cách mạng đã lập ra một ''ủy ban cứu quốc'' nhưng không thể tập hợp được quần chúng. Ngày 17 tháng 8, một cuộc mít tinh do Tổng hội viên chức tổ chức nhằm ủng hộ Chính phủ bù nhìn đã bị quần chúng sôi sục cách mạng biến thành một cuộc biểu tình ủng hộ Việt Minh. Tổng bãi công nổ ra ngày 19 tháng 8, hơn 10 vạn người biểu tình trên các đường phố và Chính phủ bù nhìn phải từ chức để giao lại chính quyền vào tay cách mạng.

Huế là kinh đô của nền quân chủ và của Chính phủ bù nhìn thân Nhật. Để tránh một cuộc đổ máu, Việt Minh đã tìm cách thuyết phục Bảo Đại thoái vị và Thủ tướng Trần Trọng Kim từ chức. Bọn phản động muốn bám giữ quyền lực dự định cầu xin Bộ tư lệnh Nhật Bản cấp cho một đội vệ binh 5.000 người. Để phá tan âm mưu đó, dân chúng Huế và các xã lân cận, có các nhóm vũ trang đi kèm, đã xuống đường biểu tình và chiếm đóng một số Bộ. Đó là ngày 23 tháng 8. Bảo Đại chấp thuận thoái vị, Chính phủ Trần Trọng Kim sụp đổ. Ngày 25 tháng 8, một phái bộ của Chính phủ nhân dân từ Hà Nội vào do Trần Huy Liệu cầm đầu, đã nhận từ tay Bảo Đại ấn kiếm biểu tượng của vương quyền, Bảo Đại trở thành công dân Vĩnh Thụy.

Ở Nam Kỳ, những phần tử thân Nhật đã thành lập một “Mặt trận dân tộc thống nhất”. Ngày 14 tháng 8, một phái viên của nhà vua từ Huế vào là Nguyễn Văn Sâm, xin Nhật vũ trang cho người của mặt trận này; nhưng mặt trận này đã không đứng vững được trước sức mạnh của làn sóng quần chúng. Ngày 25 tháng 8, một triệu người Sài Gòn và từ các vùng lân cận kéo vào, được các đội vũ trang bảo vệ, tuần hành trên các đường phố và thành lập chính quyền cách mạng.