← Quay lại trang sách

Bước ngoặt lớn năm 1945

Đầu năm 1945, thất bại của phe "Trục'' đã rõ ràng. Ở Pháp, Chính phủ Vi-si bị đổ. Quân Nhật thất bại hết trận này đến trận khác cả ở Trung Quốc lẫn trên Thái Bình Dương. Ở Đông Dương, các phần tử theo phái Đờ Gôn, đặc biệt là binh lính, bắt đầu chuẩn bị việc khôi phục chế độ thuộc địa. Từ Brazzaville, ngày 8 tháng 2 năm 1945, Đờ Gôn ra một bản tuyên ngôn mới, hứa hẹn một vài quyền tự trị cho Đông Dương. Đối với Chính phủ mới của Pháp, vấn đề là đưa quân đội Pháp trở lại nhằm cứu vãn sự có mặt của nước Pháp ở Viễn Đông. Người Nhật bị lâm vào tình thế khó khăn đứng trước một phong trào cách mạng không ngừng lan rộng và khả năng người Pháp trở mặt. Nhật đã không để cho Pháp có thì giờ hành động. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật tước khí giới của Pháp mà không gặp phải một sự kháng cự gì đáng kể. Chỉ qua một đêm, toàn thể bộ khung tòa lâu đài chế độ thuộc địa của Pháp sụp đổ. Vào thời gian này, nạn đói bắt đầu hoành hành: những vụ trưng thu, tích trữ gạo, nạn đầu cơ càng làm cho tình hình vốn đã bất ổn càng trầm trọng thêm. Quần chúng nhân dân sôi sục, Việt Minh kêu gọi các lực lượng nhân dân đẩy mạnh chiến tranh du kích, kêu gọi quần chúng nông dân chiếm các kho thóc của Nhật.

Các đảng phái thân Nhật, đặc biệt là Đảng Đại Việt, ra sức cựa quậy hòng làm cho quần chúng tin vào sự hào hiệp của người Nhật, vào huyền thoại một nền độc lập sẽ được giành lại với sự giúp đỡ của người Nhật, ráo riết tuyên truyền cho những khẩu hiệu do người Nhật tung ra: hợp tác kinh tế, độc lập dân tộc, liên minh quân sự để xây dựng khối Đại Đông Á. Thủ đoạn tuyên truyền ấy không mấy ảnh hưởng đối với một nước mà dân chúng hầu hết đã đi theo Việt Minh. Bản tuyên bố độc lập của vua Bảo Đại hủy bỏ mọi hiệp ước ký với Pháp trước đây và gắn bó liên minh giữa Việt Nam với Nhật Bản, tuyệt nhiên không thay đổi được tình thế. Khó khăn lắm người Nhật và Bảo Đại rốt cuộc mới tìm được một Thủ tướng là Trần Trọng Kim và Hội đồng Bộ trưởng mãi đến ngày 17 tháng 4, mới thành lập được, chủ yếu gồm một số trí thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tỏ ra bất lực hoàn toàn trong việc giải quyết những vấn đề lúc đó: nạn đói tiếp tục hoành hành, không một thể chế mới nào được ban hành, việc ân xá tù chính trị không được áp dụng cho những người ''cộng sản'', tức là 9/10 số người bị giam giữ lúc đó. Một sắc lệnh ký ngày 13 tháng 6 phạt tội tử hình những ai tấn công vào các đường giao thông, các kho gạo, kho hàng hóa, cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10 người; một sắc lệnh khác ký ngày 15 tháng 7, cấm các công đoàn hoạt động chính trị. Chính phủ Trần Trọng Kim tự vạch mặt, đơn giản họ chỉ là tay sai của người Nhật.

Về phía mình, Việt Minh kêu gọi dân chúng cảnh giác, đặc biệt là các giới tiểu tư sản, tránh mọi ảo tưởng có thể giành lại độc lập bằng cách thương lượng với Nhật Bản, hoặc thông qua chính phủ bù nhìn Bảo Đại-Trần Trọng Kim. Đêm mồng 9 tháng 3, trong khi quân Nhật tước vũ khí của người Pháp, ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản họp ở Đình Bảng cách Hà Nội 30km, phân tích chính xác tình hình, đưa ra một loạt nghị quyết có tầm quan trọng quyết định.

Không phủ nhận khả năng các lực lượng Pháp có thể ồ ạt quay trở lại, nhưng phải hiểu rằng kẻ thù chính trước mắt là chủ nghĩa phát xít Nhật; tuy nhiên nếu bộ máy cai trị của Pháp đã bị phá vỡ, thì bộ máy phục vụ cho Nhật chưa thể vận hành. Chiến tranh thế giới đang đi vào giai đoạn quyết định. Thất bại của Nhật sắp đến rồi. Trong nước quần chúng nhân dân đang bị nạn đói dày vò, căm thù sâu sắc kẻ chiếm đóng, đòi hỏi chuyển sang hành động. Chúng ta thực sự đang ở vào tình thế tiền cách mạng. Vấn đế đối với Đảng và Mặt trận Việt Minh là lôi cuốn quần chúng chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Việc động viên tiền khởi nghĩa đối với quần chúng nhân dân gồm 3 mặt chủ yếu:

- Phát triển các hoạt động du kích ở các miền núi và trung du

- Vận động quần chúng nông dân dùng sức mạnh chiếm các kho thóc.

- Cổ động chính trị ở các thành phố lớn.

Nhiều ủy ban giải phóng được thành lập tại các xã, các huyện và các tỉnh - một tổ chức sơ khai của chính quyền cách mạng, hành động dưới sự lãnh đạo của một ủy ban giải phóng toàn quốc. Đến tháng 4, các lực lượng vũ trang cách mạng được thống nhất lại thành ''Việt Nam giải phóng quân'' do một ủy ban quân sự chỉ huy, trong đó đặc biệt có Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng. Một trường võ bị được thành lập.

Sau ngày 9 tháng 3, các đơn vị du kích đánh chiếm các đồn bốt quan trọng của Pháp ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang. Trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, các tù nhân chính trị vừa vượt ngục bắt tay vào việc tổ chức quần chúng ở những vùng xung quanh các nhà ngục để chuẩn bị cho họ bước vào hành động. Nhiều tên phản bội bị trừng trị, chính quyền cách mạng được thiết lập ở nhiều địa phương, nhiều vùng. Đến tháng 6 năm 1945, hầu như toàn bộ 6 tỉnh ở phía bắc sông Hồng (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên) được giải phóng, tạo thành căn cứ địa cách mạng chính của cả nước. Nhiều trận phục kích đánh Nhật gây cho chúng những thương vong nghiêm trọng. Ở các tỉnh Hải Dương và Quảng Yên, có những cuộc nổi dậy ở một số nơi đã lập được chính quyền cách mạng.

Ở miền Trung, một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Trong khi chiến tranh du kích đang phát triển thì ở Bắc Kỳ và các tỉnh Bắc Trung Kỳ, nạn đói lan rộng chưa từng thấy. Chỉ trong vài tháng, hai triệu người chết đói. Nhiều làng mất đi một nửa hoặc một phần ba dân số. Ở thành thị xác chết la liệt các đường phố. Mặt trận Việt Minh kêu gọi dân chúng chớ trông cậy vào người Nhật và Chính phủ bù nhìn, mà hãy tố chức nhau lại để chiếm các kho thóc gạo, các đoàn xe chở lương thực của quân đội Nhật Bản. Kết quả là đã có một cuộc huy động đại quy mô, thức tỉnh quần chúng nhân dân về sức mạnh của chính mình, các đơn vị tự vệ ra đời trong quá trình cuộc đấu tranh đó cùng với nhiều ủy ban giải phóng. Bằng cách đó, nhiều kho gạo đã được mở ra phát cho dân, hạn chế được hậu quả của nạn đói. Đó thực sự là một hoạt động tiền cách mạng.

Ở các thành phố, đặc biệt là ở Hà Nội, Sài Gòn và Huế, hoạt động chính trị không ngừng lớn mạnh. Ở Hà Nội, mặc dầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã 5 lần bị cảnh sát phá vỡ từ năm 1941 đến năm 1945, nhưng năm 1945, mỗi xí nghiệp đã tổ chức được một Phân hội Công nhân cứu quốc của mình. Nhiều đơn vị tự vệ được thành lập, nhiều vụ bãi công nổ ra trong những xí nghiệp quan trọng nhất; nhiều cuộc biểu tình, diễn thuyết có tổ chức vũ trang bảo vệ được tổ chức trên các đường phố, các trường học, nhà máy, ở các cửa ngõ vào thành phố. Nhiều cuộc mít tinh do những kẻ thân Nhật tổ chức đã biến thành nơi tụ họp quần chúng cách mạng; binh lính Nhật đi riêng lẻ bị tước vũ khí ngay giữa thành phố, bọn phản bội bị trừng trị. Nông dân các làng xã quanh Hà Nội liên kết với công nhân để tấn công các kho thóc.