Thành lập nhà nước dân chủ, nhân dân
Chính quyền nhân dân là nhân tố quyết định hàng đầu để bảo vệ nền độc lập và đưa cuộc cách mạng dân tộc tiến lên. Nếu nhiệm vụ chống đế quốc, bảo vệ độc lập dân tộc đứng hàng đầu thì nhiệm vụ dân chủ cũng chẳng kém phần quan trọng, phải củng cố khối đoàn kết dân tộc đồng thời động viên nguồn năng lượng cực kỳ to lớn của quần chúng lao động, tạo nên những mối gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa chính quyền cách mạng và quần chúng nhân dân. Để chống lại những đòn tiến công của bọn đế quốc, phải có một mặt trận thống nhất vững chắc, một nhân dân kiên định, một ý chí không gì lay chuyển nổi, nhưng lại phải có sách lược hết sức mềm dẻo.
Trên bình diện đối nội, nhiều nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra: đấu tranh chống nạn đói, mở rộng mặt trận dân tộc, thi hành những cải cách dân chủ cấp thiết, củng cố Nhà nước nhân dân, đấu tranh ngay lập tức chống nạn mù chữ.
Trận đói năm 1944 chưa chặn được thì một trận lụt lớn chưa hề có đã xảy ra năm 1945, tràn ngập mấy tỉnh đông dân nhất trên vùng châu thổ sông Hồng. Nhân công, súc vật, lúa giống đều thiếu. Sau lụt thì đến hạn kéo dài. Khoảng 250.000 ha không thể gieo được, một phần ba thu hoạch vụ mùa - vụ quan trọng nhất trong năm, bị mất. Ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh thậm chí bị mất đến 50% thu hoạch. Không thể trông chờ lúa gạo ở miền Nam, bởi vì từ ngày 23 tháng 9, quân Pháp đã chiếm lại Sài Gòn.
Nạn đói đã là thách thức lớn đối với chính quyền nhân dân lúc bấy giờ. Ngay từ ngày 3 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động một chiến dịch chống đói với hai biện pháp song song: ''Vận động nhân dân đoàn kết tương trợ và đẩy mạnh sản xuất".
Trong không khí phấn khởi trước nền độc lập được giành lại với một nhiệt tình yêu nước vô bờ bến, hàng triệu con người noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh tiết kiệm từng nắm gạo, chia sẻ lương thực với những người bị thiếu đói nhất. Mọi người bắt tay trồng trọt trên cả những mảnh đất nhỏ nhất. Những cây lương thực ngắn hạn như khoai lang, rau đậu, bầu bí... được trồng khắp nơi đất bỏ trống, ngay cả ở những công viên, trong khi từng gia đình thực hiện “hũ gạo cứu tê” và nhiều đoàn người tình nguyện đi khắp nơi quyên góp lương thực. Vụ thu hoạch cây lương thực trên đất trồng màu cuối năm 1945 đầu năm 1946, đánh dấu một bước nhảy vọt:
- 230.000 tấn khoai lang so với 65.000 tấn những năm 1938 - 1943.
- 220.000 tấn ngô so với 56.000 tấn những năm 1938 - 1943
- 60.000 tấn đậu tương so với 26.000 tấn những năm 1938 - 1943 (con số của Bắc Bộ, tức là Bắc Kỳ).
Đồng thời, 1.200km đê điều được sửa chữa, công trình đã phải huy động đến 11 triệu ngày công và cần đến 2 triệu mét khối đất đào đắp.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một Chính phủ đã có thể thắng được nạn đói bằng những biện pháp tích cực chủ động, nhờ động viên quần chúng nhân dân, vụ hè năm 1946, đã thu hoạch tốt, tiếp tục đà thắng lợi của các vụ đông - xuân trước đó. Nạn đói đã bị khoanh lại rồi dập tắt. Sau cơn thử thách to lớn đó toàn dân cảm thấy gắn bó chặt chẽ với chính quyền cách mạng, một chính quyền đã tỏ rõ năng lực tổ chức và tính thần tận tụy với nhân dân.
Cuộc đấu tranh chống nạn đói không cản trở chính quyền cách mạng phát động một chiến dịch khác, cũng trên quy mô toàn quốc - đấu tranh chống nạn mù chữ. Ngày 8 tháng 9, Nha "Bình dân học vụ'' được thành lập. Gần 100.000 người xung phong làm giáo viên tình nguyện và hơn 70.000 lớp học được tổ chức tại các chùa chiền, đình miếu, các nhà máy, bệnh viện, dưới bóng râm của những cây đa, trong các chợ, trên bờ ruộng. Người già ngồi bên cạnh lớp trẻ học đọc và học viết. Ngay con cháu trong nhà cũng trở thành giáo viên dạy chữ cho ông bà, cha mẹ của mình. Chỉ trong vòng một năm, từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 9 năm 1946, trong khi nhiều đội quân nước ngoài còn đóng trên lãnh thổ quốc gia, trong khi cuộc chiến đấu chống nạn đói đang đòi hỏi những nỗ lực ghê gớm, thì hai triệu người người đã biết đọc, biết viết. Đồng thời, những cơ sở của một nền giáo dục quốc gia đã được thiết lập, đặc biệt tiếng Việt trong suốt cả thời kỳ thuộc địa đã bị gạt xuống hàng thứ hai, nay trở thành ngôn ngữ chính được sử dụng ở tất cả các cấp học, kể cả ở cấp giáo dục cao đẳng.
Ngay từ năm đầu tiên, chính quyền mới đã đánh thắng hai trận lớn và đã chứng minh bản lĩnh của mình, thực hiện triệt để cương lĩnh cách mạng mà những người yêu nước đã từng mơ ước: đảm bảo cho dân có cơm ăn và được học hành.
Việc động viên những tiềm năng của quần chúng nhân dân như thế chỉ có thể làm được trên cơ sở một sự đoàn kết dân tộc rộng rãi. Sau thắng lợi của cách mạng, mặt trận Việt Minh đã được mở rộng và củng cố, liên kết thêm nhiều tổ chức quần chúng và nhiều nhân sĩ mới: các hội yêu nước của công thương gia, của các Phật tử, sinh viên, công chức v.v... Vấn đề đoàn kết các dân tộc và tôn giáo khác nhau có tầm quan trọng hàng đầu. Ngày 8 tháng Chạp năm 1945, đại biểu của 20 dân tộc khác nhau từ mọi miền của đất nước đã về Hà Nội họp để khẳng định những nguyên tắc đoàn kết, bình đẳng và tương trợ giữa tất cả các dân tộc. Đại biểu của các tôn giáo khác nhau: Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Cơ đốc giáo đều tỏ rõ tinh thần đoàn kết, thể hiện nguyện vọng của mọi người là bảo vệ nền độc lập và xây dựng một nước Việt Nam mới.
Năm 1946, để thực hiện một khối đoàn kết rộng rãi đến mức tối đa, Mặt trận Liên Việt được thành lập. Mặt trận dân tộc thống nhất là cơ sở trực tiếp của các cơ quan của chính quyền ở tất cả các cấp và luôn luôn dựa trên nền tảng liên minh công nông. Trên cơ sở đó, chính quyền nhân dân tiếp tục được xây dựng và các cơ quan Nhà nước được thành lập nhanh chóng.
Ngày 8 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh quyết định việc bầu cử quốc hội. Chiến địch vận động bầu cử trở thành một phong trào rộng lớn để củng cố chính quyền cách mạng đứng trước những âm mưu của bọn đế quốc, đặc biệt của thực dân Pháp - chúng đã đổ quân lên Sài Gòn từ ngày 23 tháng 9. Đây là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử đất nước. Mọi công dân từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và trong những giờ phút nghiêm trọng của đất nước, mỗi người dân coi việc đi bầu cử như là một đóng góp của mình vào việc giữ gìn nền độc lập đang bị đe dọa. Tình hình đã diễn ra đúng như thế, đặc biệt ở miền Nam, nơi quân đội Pháp đã bắt đầu những cuộc hành quân tái chiếm.
Ngày 6 tháng Giêng năm 1946, toàn dân đi bỏ phiếu. Ở miền Nam, mặc dầu thực dân Pháp đàn áp, hơn 90% dân số đã đi bầu. Đại bộ phận cử tri đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên của Việt Minh, lực lượng đã giữ vai trò chính trong cuộc giành lại nền độc lập của đất nước. Bằng cách đó, nhân dân Việt Nam như đã khẳng định một cách dứt khoát sự ủng hộ của mình đối với chính sách của Việt Minh, sự tín nhiệm đối với Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu - người đã được cử tri Hà Nội bầu với 98% số phiếu. Hơn 300 đại biểu được bầu thuộc tất cả các tầng lớp xã hội, các dân tộc và tôn giáo khác nhau. Quốc hội tín nhiệm giao quyền cho Chính phủ Hồ Chí Minh. Mọi âm mưu phản cách mạng nhằm phá hoại uy tín của Chính phủ cách mạng đều thất bại. Chính phủ Hồ Chí Minh là người đại diện chân chính duy nhất của dân tộc Việt Nam được nhân dân tín nhiệm, cầm quyền một cách hợp pháp, đã chứng tỏ khả năng của mình trong những khâu chủ yếu nhất của cuộc chiến đấu chống nạn đói và nạn mù chữ. Để đương đầu với chính phủ đó, bọn đế quốc chỉ có thể đưa ra những tên tay sai vô danh tiểu tốt, không có chút tín nhiệm gì trong quần chúng và thường có một quá khứ phản bội đã rõ rành rành.
Ở cấp địa phương, các nhà chức trách cũ, quan lại, hào lý khi cách mạng nổ ra đã giao quyền lại cho những người khởi nghĩa. Một sắc lệnh mới - ''Sắc lệnh số 63'' quy định việc bầu hội đồng nhân dân ở mỗi cấp; các Hội đồng này lại bầu ra ủy ban hành chính ở mỗi địa phương. Từ Thủ đô đến các làng xã, khắp cả nước chính quyền nhân dân được thành lập, nắm lấy mọi việc, giải quyết có hiệu quả, được nhân dân tin tưởng, được mọi người ra sức ủng hộ.
Chính phủ mới bắt tay ngay vào công việc, đặc biệt lo xúc tiến một loạt cải cách dân chủ, tăng cường lực lượng vũ trang nhân dân và đảm bảo cho mình một nền tài chính lành mạnh và độc lập.
Trên bình diện xã hội, vấn đề là làm sao thỏa mãn được các đòi hỏi chính đáng của nông dân và công nhân mà không phương hại đen khối đoàn kết dân tộc. Trên bình diện chiến lược, hai nhiệm vụ phản đế và phản phong gắn liền với nhau, nhưng về sách lược có thể được tiến hành theo những nhịp độ khác nhau. Vào lúc này, việc bảo vệ độc lập dân tộc đứng trên hết, còn những cải cách dân chủ tuy có thực chất, nhưng chưa mang tính chất triệt để.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, người ta tiến hành việc phân chia công bằng ruộng đất công chiếm gần 12% diện tích đất trồng trọt trong cả nước. Tô được giảm 25% và nhiều khoản nợ được hoãn ngày trả. Đất đai thuộc sở hữu của bọn thực dân và bọn phản quốc thì bị tịch thu để tạm chia cho nông dân nghèo. Nông dân được quyền khai vỡ đất hoang hóa và được sở hữu phần ruộng đất do mình khai phá.
Một hệ thống luật xã hội được ban bố: ngày làm 8 giờ, tự do nghiệp đoàn, tự do bãi công. Những xí nghiệp có tầm quan trọng quốc gia mà chủ vắng mặt, đều bị quốc hữu hóa hoặc bị trưng dụng và các công nhân được quyền tham gia quản lý các xí nghiệp đó. Rất nhiều xí nghiệp và công xưởng được mở để giải quyết việc làm cho đông đảo những người thất nghiệp.
Các khoản thuế thân, thuế thuốc phiện, rượu, muối, do chính quyền thuộc địa đặt ra đều bị bãi bỏ.
Nhà nước mới lúc ra đời chỉ có trong quỹ 1.250.720 đồng bạc Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương, cơ quan phát hành tiền, trong Cách mạng Tháng Tám, đã thoát khỏi sự kiểm soát của lực lượng khởi nghĩa, nhưng đã buộc phải thi hành lệnh chi của Chính phủ Việt Nam. Thế nhưng, ngày 23 tháng 10 năm 1945, ngân hàng này ngừng mọi khoản thanh toán, cho rằng bằng cách đó có thể gây nên khủng hoảng tài chính sẽ là tai họa cho chính quyền nhân dân. Ngay từ những ngày đầu, Chính phủ Việt Nam đã phát động một phong trào quyên góp trong dân chúng rộng rãi các báu vật (vàng và bạc) để trang trải những khoản chi tiêu cấp thiết nhất. Tất cả các tầng lớp xã hội đã nhiệt liệt hưởng ứng và các công chức nhà nước đã tự nguyện làm việc không lương trong nhiều tháng.
Ngày 31 tháng Giêng năm 1946, một sắc lệnh công bố việc phát hành những đồng tiền Việt Nam đầu tiên, buổi đầu lưu hành ở miền Trung, rồi từ cuối năm 1946, lưu hành trong cả nước. Lấy gì để bảo đảm cho đồng tiền này? Chính phủ không có dự trữ vàng, cũng không có ngoại tệ. Nhà nước Việt Nam chưa được bất cứ một nước nào thừa nhận và cũng chưa có quan hệ thương mại với bên ngoài. Đồng tiền này dựa trên cơ sở lòng yêu nước của quần chúng nhân dân, sự tin cậy đối với Chính phủ và ý chí của họ bảo vệ nền độc lập dân tộc. "Đồng'' Việt Nam được trao đổi ngang giá với đồng bạc Đông Dương. Bước đi đầu tiên để xây dựng một nền kinh tế dân tộc độc lập đã được thực hiện.
Tất cả những nhiệm vụ chính trị, xã hội, tài chính cấp thiết ấy không ngăn cản Nhà nước mới nghĩ đến nghĩa vụ hàng đầu lúc bấy giờ là bảo vệ nền độc lập bằng mọi giá. Bởi vậy, điều quan tâm lớn nhất là xây dựng các lực lượng vũ trang, lực lượng chính quy cũng như lực lượng tự vệ khu vực và địa phương. Vừa mới ra đời, Nhà nước dân chủ và nhân dân Việt Nam đã được võ trang đầy đủ về mọi phương diện đế đối phó với những thử thách đang chờ đợi mình.