← Quay lại trang sách

Pháp xâm lược Nam Bộ

Mùa hè năm 1945, sau khi Nhật Bản bại trận, Chính phủ Pháp thi hành một loạt biện pháp khẩn cấp hòng cô lập lại chủ quyền của họ ở Đông Dương. Ngày 16 tháng 8, họ cử sang Đông Dương phân đội Massu và sư đoàn 9 lục quân thuộc địa do tướng Leclerc làm Tổng chỉ huy đội quân viễn chinh và Đô đốc Thierry D'argenlieu - một thầy tu - làm Cao ủy của Pháp ở Đông Dương. Tổng chỉ huy các lực lượng quân Anh ở Đông Nam Á là Mountbatten làm tất cả những gì có thể để đẩy nhanh việc gửi quân đội Pháp sang Đông Dương, bởi vì chủ nghĩa đế quốc Anh lo lắng về tương lai của các thuộc địa Anh ở châu Á nên nóng lòng muốn thấy nước Pháp lập lại nền đô hộ của họ ở Đông Dương.

Ngày 23 tháng 8, một số người Pháp, trong đó có Cedile, đại diện của Cao ủy Pháp, được thả dù xuống Nam Bộ. Cedile được Nhật cho phép bắt liên lạc với người Pháp ở Sài Gòn (khởi nghĩa chưa nổ ra ở thành phố này). Ngày 29 tháng 8, Cedile tiếp xúc với ủy ban cách mạng Nam Bộ để xác định với ủy ban này rằng nước Pháp sẽ không thừa nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam. Ủy ban trả lời ông ta rằng nhân dân Việt Nam đã giành lại được nền độc lập và thống nhất của đất nước mình rồi và sẽ không thừa nhận bất cứ một hình thức cai trị thuộc địa nào. Ngày 2 tháng 9, khi cuộc biểu tình quần chúng lớn diễn ra chào mừng nền độc lập của đất nước, bọn thực dân Pháp và tay sai của chúng nấp trong một nhà thờ, đã nã súng vào đoàn người biểu tình, làm 47 người chết và bị thương.

Trong những ngày đầu tháng 9, những đội quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn, giải thoát cho hàng nghìn người Pháp bị giam giữ từ cuộc đảo chính của Nhật trước đó, cung cấp vũ khí cho họ. Số người Pháp này đã tổ chức nhiều cuộc khiêu khích, ỷ thế được quân đội Anh bảo vệ. Ngày 13 tháng 9, quân Anh chiếm tòa nhà trụ sở của ủy ban Nam Bộ, để cho người Pháp kéo lá cờ tam tài lên, cho phép quân đội Pháp được thay chân quân Nhật ở một số điểm trong thành phố. Đứng trước những vụ khiêu khích ấy, ngày 19 tháng 9, ủy ban Hành chính Nam Bộ ra lời kêu gọi nhân dân sẵn sàng tiến hành một cuộc kháng chiến vũ trang chống mọi mưu toan của quân Pháp định chinh phục lại đất nước. Cùng ngày đó, Cedile tuyên bố rằng trước hết phải khôi phục lại trật tự rồi sau đó mới lập lên một Chính phủ theo hướng của tuyên bố ngày 23 tháng 3 năm 1945 của De Gaulle.

Ngày 20 tháng 9, tướng Anh Gracey ra lệnh cấm tất cả các báo chí Việt Nam; ngày 21, ông ta ban hành lệnh giới nghiêm, giải tán các lực lượng an ninh của Việt Nam, buộc họ phải giao nộp vũ khí. Tất nhiên là họ không nghe. Gracey thả tự do và vũ trang lại cho 1.400 từ binh Pháp. Số lính Pháp này, trong ngày 22 tháng 9, đã gây khiêu khích ở nhiều nơi, chiếm nhiều đồn cảnh sát. Đêm ngày 22 rạng sáng ngày 23, quân Pháp mở cuộc tấn công vào Sài Gòn. Cuộc chiến tranh để tái chinh phục bắt đầu. Lập tức, ủy ban Hành chính Nam Bộ kêu gọi nhân dân đánh trả. Khẩu hiệu ''Độc lập hay là chết'' vang lên khắp nơi. Ngày 26 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố:

" Tôi chắc và đông bào Nam Bộ cũng chắc rằng, Chính phủ và đồng bào toàn quốc sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà' '.

Nhiều đơn vị quân đội nhân dân lập tức lên đường tiến vào Nam Bộ. Từ ngày 25 tháng 8, ngày giành chính quyền, cho đến ngày 23 tháng 9, chính quyền cách mạng vừa được thiết lập ở Sài Gòn chưa có thì giờ để củng cố các lực lượng vũ trang của mình, thế nhưng nhiệt tình yêu nước của quần chúng, không khí phấn khởi bao trùm do khởi nghĩa thắng lợi tạo nên, đã khơi dậy trong mọi người một ý chí chiến đấu phi thường. Vũ khí chỉ là những cây gậy tầm vông đơn giản, thế mà dân chúng Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đấu chống quân thù. Trong nội thành Sài Gòn, nơi kẻ thù đã chiếm những trụ sở hành chính chủ yếu, dân chúng lập tức đứng lên chiến đấu võ trang và chính trị. Trong nhiều khu phố, những đội quân Pháp được quân Anh và Nhật yểm trợ, đã đụng phải những chiến lũy; những trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trên các đường phố, trong các nhà máy. Trong những trận đánh đó, vũ khí đạn dược thiếu thốn, nhưng đã được những người yêu nước Việt Nam bù đắp lại bằng một chủ nghĩa anh hùng vô song. Lệnh tổng bãi công được ban bố, đồng thời với lệnh bất hợp tác với người Pháp đang bị phong tỏa trong các khu vực người Âu bị cô lập trong một thành phố không điện, không nước. Công nhân đốt cháy nhiều xí nghiệp của Pháp hoặc tháo gỡ máy móc chuyển về các vùng nông thôn. Quân Pháp bất lực không thể mở rộng vùng chiếm đóng của chúng ra ngoài Sài Gòn và đêm đêm chúng lại bị quấy rối bởi những chiến sĩ du kích đầy quyết tâm.

Bấy giờ người Pháp mới tìm cách thương lượng. Ngày 2 tháng 10 đã diễn ra chiều cuộc tiếp xúc. ủy ban Hành chính Nam Bộ đòi Pháp phải thừa nhận nền độc lập của Việt Nam, phía Pháp từ chối, những cuộc chiến đấu lại tiếp tục sau một tuần đình chiến. Giữa lúc đó, những đơn vị đầu tiên của đội quân viễn chinh Pháp đổ bộ. Tướng Anh Gracey đe dọa dùng vũ lực. Ủy ban Nam Bộ gửi cho ông ta một thông điệp khẳng định:

" Chúng tôi tôn trọng những đội quân Anh - Ấn đang làm sứ mạng của họ, nhưng nếu họ mưu toan lập lại chủ quyền của người Pháp, họ sẽ được thấy cả một dân tộc đứng lên bảo vệ nền độc lập của mình ''.

Dân chúng các trung tâm đô thị theo lệnh của ủy ban bắt đầu sơ tán khỏi các thành phố để chuẩn bị kháng chiến. Những đội quân Anh - Ấn được dân chúng tiếp đón một cách bình tĩnh, nhưng đối với quân Pháp thì chiến tranh du kích được đẩy mạnh và vòng vây thắt chặt hơn nữa quanh thành phố Sài Gòn. Tuy nhiên, đạo quân viễn chinh đến đã tăng cường thêm lực lượng mới cho chúng; quân Anh lấy danh nghĩa quân đồng minh mở đường cho chúng lần lượt liếm cứ các trung tâm đô thị và các địa phương nằm ngoài Sài Gòn. Ngày 21 tháng 10, quân Pháp-Anh bắt đầu tấn công theo hướng châu thổ sông Mê Kông là vựa thóc của Nam Bộ và theo hướng các đồn điền cao su. Rồi chúng tiến lên vùng Tây Nguyên, đổ bộ quân lên các thành phố phía Nam Trung Bộ. Những cuộc hành quân này kéo dài suốt hai tháng 11 và 12 năm 1945. Cuối tháng Giêng, nhờ có thêm xe thiết giáp và lực lượng thủy quân, Pháp đã chiếm được các thành phố và đường giao thông lớn ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và vùng Tây Nguyên. Sau những trận chiến đấu với lực lượng đôi bên quá chênh lệch, các đơn vị Việt Nam rút khỏi các thành phố để bắt đầu tổ chức cuộc kháng chiến ở nông thôn. Bao vây kinh tế và phá hoại vẫn là những hoạt động yêu nước chủ yếu ở các trung tâm đô thị. Nhũng căn cứ kháng chiến chính nằm ở vùng Đồng Tháp Mười, vùng Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, vùng rừng U Minh và ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Chính phủ Việt Nam cho rằng lúc này, nhiệm vụ chủ yếu là tăng cường sức mạnh càng nhiều càng tốt cho cuộc kháng chiến ở miền Nam.

Sang tháng Chạp, sự chỉ đạo cuộc kháng chiến được thống nhất Nam Bộ được chia làm 3 khu quân sự; bộ máy chính trị, hành chính và quân sự của cuộc kháng chiến được tổ chức lại trên những cơ sở mới. Quân Pháp buộc phải phân tán lực lượng, gặp rất nhiều khó khăn trong việc dựng lên những hội đồng hào mục phản động. Chúng tăng cường những hoạt động khủng bố chống dân chúng, những cuộc hành hình không xét xử, tra tấn những người yêu nước, nhưng vẫn bất lực không thể đè bẹp được tinh thần của dân chúng. Ngày 5 tháng 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố.

“ Bọn thực dân Pháp phải biết rằng nhân dân Việt Nam không muốn đổ máu, nhân dân Việt Nam yêu hòa bình. Nhưng dù phải hy sinh hàng triệu chiến sĩ, phải kháng chiến lâu dài để bảo vệ nền độc lập của đất nước và gìn giữ cho con cháu mình khỏi vòng nô lệ, thị họ sẽ làm. Họ chắc rằng cuộc kháng chiến sẽ thắng ''.

Ngày 25 tháng 11, ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản ra những chỉ thị về cuộc kháng chiến:

" … Cắt mọi liên lạc giữa các thành phố bị địch chiếm đóng, phong tỏa về kinh tế, bao vây về chính trị, quấy rối về quân sự…, áp dụng triệt để chiến tranh du kích, vận động nhân dân các thành phố bị chiếm đóng bất hợp tác với địch, nhân dân nông thôn làm vườn không nhà trống khi địch đến. Giữ vững liên lạc giữa các khu quân sự với nhau để đảm bảo sự chỉ huy thống nhất... Những kế hoạch tấn công cũng như rút lui phải được xây dựng tỉ mỉ... ''

Từ miền Bắc, mặc dù đang gặp mọi khó khăn về kinh tế và tài chính lúc bấy giờ, việc tăng viện người và hậu cần cho miền Nam vẫn không ngừng. Nhiều người tình nguyện vào Nam chiên đấu. Nhân dân tiết kiệm từng đồng xu để góp phần bảo vệ miền Nam. Ngày 17 tháng Giêng năm 1946, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân danh các lực lượng võ trang Việt Nam tuyên bố:

" Việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài và việc tăng viện cho miền Nam lúc này là mối quan tâm nhất của Chính phủ và của toàn dân. Chúng ta phải bằng mọi cách, hy sinh tất cả để đóng góp cho cuộc kháng chiến, cho mặt trận miền Nam ''.

Việc tổ chức lại cuộc kháng chiến đã sớm mang lại kết quả Viên tướng Pellet thừa nhận:

“ Kẻ thù ở khắp nơi, không có trận tuyến liên tục, không có những vị trí phòng thủ được định vị rõ ràng để có thể sử dụng những phương tiện chiến tranh mạnh mẽ và hiện đại của chúng ta. Mỗi lùm tre, mỗi mái nhà, có lẽ đều che giấu kẻ thù. Vì vậy, binh sĩ của chúng ta luôn phải căng thẳng đầu óc, bất cứ lúc nào, ngày hay đêm, bất cứ nơi nào, cũng phải đương đầu với một kẻ thù không sao nắm bắt được ”.

Và đây là lời minh chứng của một người Pháp khác, một thủy thủ con trai của một công nhân, khi khởi hành sang Đông Dương vẫn tưởng là mình đi đánh quân Nhật:

“ Ở Đông Dương, quân đội Pháp đã hành động giống như quân phát xít Đức đã làm ở Pháp trước đây. Tôi rất đau lòng về những hành động của họ. Tại sao máy bay chúng ta lại hàng ngày bắn vào những người dân chài lưới bình thường không có một thứ gì để tự vệ? Tại sao binh lính chúng ta lại cướp bóc, đốt phá, giết chóc? Có Phải như vậy là để khai hóa đất nước này? Không phải chúng ta đang đứng trước một dúm người nổi loạn mà là cả một dân tộc đang kiên quyết bảo vệ tự do của họ. Ở đây tất cả mọi người đều là Việt Minh. Gì thì gì người ta không thể tiêu diệt được cả một dân tục ”.

Người đã viết những dòng trên đây về cho gia đình mình vào năm 1946, tên là Henri Martin.(60)

Như vậy, trong những tháng đầu năm 1946, tình thế là rất khó xử cả đối với người Pháp cũng như đối với Chính phủ Việt Nam. Tuy quân pháp đã chiếm được các thành phố chính ở Nam Bộ và ở cả Nam Trung Bộ, nhưng chúng bất lực không thắng nổi quân du kích, mặt khác, chừng nào còn có một Chính phủ cách mạng ở Hà Nội thì chừng đó việc chiếm đóng miền Nam còn bấp bênh. Trong khi tiếp tục những chiến dịch quân sự và gửi viện binh từ Pháp sang, thực dân Pháp bắt đầu tính đến kế hoạch ly khai Nam Bộ với một ''Chính phủ tự trị'' gồm những tay bù nhìn. Về phía Việt Nam, quyết tâm bảo vệ nền độc lập là không hề lay chuyển và sự ủng hộ của rộng rãi nhân dân được bảo đảm vững vàng, nhưng lực lượng vật chất và quân sự vẫn rất nhỏ bé. Cần phải có thì giờ để xây dựng những lực lượng ấy. Ngoài ra, sự có mặt của những đội quân Tưởng ở miền Bắc làm chỗ dựa cho các đảng phản động là một mối đe đọa thường xuyên.

Bọn thực dân Pháp liền bắt tay thương lượng với Tưởng Giới Thạch cho phép quân Pháp thay chân quân Tưởng ở Bắc Đông Dương, đổi lại Pháp nhường cho Tưởng những quyền lợi của Pháp ở Trung Quốc, một đoạn đường sắt Vân Nam, một đặc khu ở Hải Phòng và một quy chế đặc biệt cho các Hoa Kiều ở Đông Dương. Hiệp định được ký ngày 28 tháng 2, chủ quyền Việt Nam bị đem ra đổi chác mà Chính phủ Việt Nam lại không được hỏi đến. 4.000 quân Pháp chạy trốn sang Trung Quốc cho đến tận bây giờ liền kéo vào Lai Châu, trong lúc viện binh từ Pháp sang đang chuẩn bị đổ bộ lên miền Bắc.

Để tránh phải đánh nhau một lúc vừa với quân Pháp vừa với quân Tưởng Giới Thạch, Chính phủ Việt Nam chọn con đường thỏa hiệp với Pháp, để chấm dứt việc quân Tưởng chiếm đóng đất nước. Thỏa hiệp đó là cần thiết để tranh thủ thời gian và có thể thực hiện được, vì quân Pháp trong lúc đang chuẩn bị việc xâm chiếm lại toàn bộ Việt Nam, chưa đủ sức tiến hành một cuộc chiến tranh mở rộng ra cả nước. Trong thời gian đầu người Pháp chỉ cần đưa vào được một số quân nào đó để làm bàn đạp rồi từng bước mở rộng dần sự chiếm đóng cùng với nhịp độ viện binh gửi tới.

Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông Sainteny, đại diện Chính phủ Pháp, ký một hiệp định có những điều khoản chính như sau:

1. Chính phủ Pháp thừa nhận nước Cộng hòa Việt Nam là một nhà nước tự do, có chính quyền, có quốc hội, có quân đội và tài chính riêng của mình, ở trong liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp. Về việc hợp nhất ba “kỳ”, Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận các quyết định của nhân dân thông qua trưng cầu dân ý.

2. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận hữu hảo quân đội Pháp khi họ đến thay thế quân đội Trung Quốc đúng theo các hiệp định quốc tế.

3. Ngay sau khi hiệp định đã được hai bên ký, mỗi bên tham gia ký kết sẽ thi hành mọi biện pháp cần thiết để lập tức chấm dứt những xung đột, duy trì quân đội của hai bên ở nguyên những vị trí của mình và tạo ra bầu không khí thuận lợi cần thiết để mở ngay những cuộc thương lượng hữu nghị và trung thực. Những cuộc thương lượng này trước mắt sẽ bàn về những quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các quốc gia bên ngoài, về quy chế tương lai của Đông Dương, những lợi ích kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.

Sau Hiệp định ngày 6 tháng 3, bắt đầu một cuộc đấu tranh phức tạp để làm cho hiệp định được tôn trọng: đấu tranh quân sự chính trị và ngoại giao. 15.000 lính Pháp kéo vào Hà Nội, nhưng 20 vạn quân Tưởng rút đi, đem theo những phần tử đầu cơ của Việt Cách và Việt Quốc. Từ đây, cuộc đấu tranh tập trung chống những thủ đoạn quân sự và chính trị của thực dân Pháp.

Ở Nam Bộ, người Pháp tiếp tục những cuộc hành quân càn quét, tiếp tục ném bom và đàn áp những người yêu nước Việt Nam. Vài tuần lễ sau ngày ký hiệp định, Cao ủy Pháp là Thierry D'Argenlieur dùng một số nhân vật bù nhìn lập ra "Chính phủ nước Cộng hòa Nam Kỳ tự trị'' nhằm mục đích tách hẳn Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Ở Hà Nội, tướng Lederc vừa tới đã tuyên bố đầy khiêu khích rằng: “Hà Nội là giai đoạn cuối cùng của cuộc giải phóng”.

Quân đội Pháp vừa đặt chân lên miền Bắc đã gây nhiều hành động khiêu khích, ám sát những người yêu nước Việt Nam, dẫm đạp lên chủ quyền của Việt Nam. Thực dân Pháp và nhóm cầm quyền phản động ở Paris chắc mẩm rằng, việc tái chiếm Đông Dương bằng quân sự là chuyện dễ dàng, rằng nhân dân Việt Nam chẳng có phương tiện gì để chống lại sức mạnh quân sự của Pháp.

Trong những điều kiện ấy, những cuộc thương lượng giữa các nhà cầm quyền Pháp và Việt Nam chỉ có thể là một trận đấu kéo dài mà không có lối thoát. Những cuộc đàm phán sơ bộ ở Đà Lạt bắt đầu từ tháng 4 kéo dài sang tháng 5, chỉ ghi nhận những khác biệt cơ bản trong lập trường của mỗi bên. Phía Việt Nam bảo vệ chủ quyền dân tộc về mặt đối nội và đối ngoại, bảo vệ sự thống nhất đất nước từ Bắc đến Nam, trong khi người Pháp đưa ra một dự án về “Liên bang Đông Dương” đứng đầu là một viên toàn quyền người Pháp và đòi giữ quyền đại diện cho Việt Nam trong mọi quan hệ quốc tế. Người pháp cũng muốn sáp nhập Việt Nam vào khu vực dùng đồng franc của Pháp. Đó chỉ là một cách ngụy trang cho cấu trúc thuộc địa cũ bằng những tên gọi mới mà thôi. Tranh chấp chính là về vấn đề quy chế của Nam Bộ mà người Pháp muốn tách ra khỏi Việt Nam; phái đoàn Việt Nam kiên quyết không chịu nhân nhượng về nguyên tắc thống nhất đất nước. Võ Nguyên Giáp, Trưởng Đoàn Việt Nam ở Đà Lạt, tuyên bố:

“ Nếu Nam Bộ bị tách khỏi đất nước, thì nhân dân Việt Nam sẽ đưa hết nghị lực của mình để đấu tranh đưa miền Nam trở về trong một nước Việt Nam thống nhất ”.

Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì tuyên bố.

“ Đồng bào là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi ”.

Ngày 6 tháng 7, những cuộc thương lượng mở ra ở Fontainbleau gần Paris. Người Pháp ngoan cố bám giữ các quan điểm của họ. Cuộc họp bế tắc. Ngày 18 tháng 8, Marius Moutet, Bộ trưởng thuộc địa Pháp tuyên bố. "Nam Kỳ vốn là thuộc địa của Pháp''. Trong khi các đại diện của Pháp đang thương lượng ở Fontainbleau thì Cao ủy Pháp ở Đông Dương, ngày 1 tháng 8, lại mở cuộc hội nghị các nhân vật bù nhìn ở Đà Lạt để thành lập Liên bang Đông Dương. Ở Việt Nam những vụ khiêu khích của quân đội Pháp tăng gấp bội. Hội nghị Fontainebleau không còn lý do để tiếp tục. Chủ tịch Hồ Chí Minh bấy giờ đang ở Pháp đã có một cố gắng hòa giải cuối cùng bằng cách ký với Marius Moutet một Tạm ước. Thế nhưng viện quân Pháp vẫn không ngừng đổ vào. Chính phủ Pháp tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến tranh để xâm chiếm lại nước Việt Nam.

Tháng 10, Quốc hội Việt Nam ủy nhiệm cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập một Chính phủ mới trên cơ sở đoàn kết dân tộc rộng rãi. Cũng trong kỳ họp này, Quốc hội thông qua bản Hiên pháp khẳng định nguyên tắc cơ bản là "Mọi quyền lực thuộc về nhân dân" và thừa nhận các quyền dân chủ của nhân dân, quyền bình đẳng nam - nữ, quyền bình đẳng giữa tất cả các dân tộc Hiến pháp tuyên bố Việt Nam là một nước thống nhất từ Bắc chí Nam.

Trong khi đó, quân đội Pháp vẫn tiếp tục khiêu khích. Những thủ đoạn thực dân xấu xa trơ tráo đến nỗi kẻ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh của họ, Thủ tướng ''Chính phủ Nam Kỳ tự trị''' buộc phải tự tử. Quân đội Pháp tìm cách gây ra ở khắp nơi những sự cố để lấy cớ tấn công vào chủ quyền Việt Nam. Chúng muốn thiết lập các cơ quan thuế quan của Pháp ở Hải Phòng - hải cảng duy nhất ở miền Bắc thông thương với nước ngoài và thuế quan thu được ở đây cung cấp một phần quan trọng cho ngân sách Việt Nam. Ngày 20 tháng 11, quân đội Pháp đồng thời nổ súng vào các lực lượng Việt Nam ở Hải Phòng và ở Lạng Sơn. Ở Hải Phòng, pháo lớn của hải quân Pháp còn bắn cả vào các khu vực đông dân cư, làm hàng nghìn người bị chết. Chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, hai đầu cửa khẩu vào miền Bắc, bộ chỉ huy Pháp để lộ rõ ý đồ của họ. Chính phủ Việt Nam trong khi chuẩn bị cho nhân dân chống lại những đợt tấn công mới của Pháp, đã có một cố gắng cuối cùng để cứu vãn hòa bình, nhưng vài ba thỏa thuận giữa phía Việt Nam với các nhà chức trách dân sự của Pháp đã nhanh chóng bị quân đội Pháp phá hoại.

Quân Pháp còn gây nhiều sự cố ngay ở thủ đô của Việt Nam. Ngày 17 tháng Chạp, một cuộc tấn công của quân đội Pháp trên đường phố Hàng Bún ở Hà Nội đã làm chết khoảng một trăm người. Ngày 18 tháng 12, chúng chiếm Bộ Tài chính và Bộ Giao thông và gây thêm nhiều vụ khiêu khích khác nữa trên các đường phố. Quần chúng và dân quân tự vệ Hà Nội đứng lên các chướng ngại vật, đục các lỗ giao thông giữa các nhà dân với nhau để chuẩn bị chống lại các đợt tấn công của Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Léon Blum, người vừa mới được chỉ định làm Thủ tướng Chính phủ Pháp, yêu cầu ông ta ra lệnh tôn trọng các hiệp định đã ký kết. Không có một câu trả lời nào. Ngày 19, Bộ chỉ huy Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam đòi phá giỡ những vật chướng ngại trên đường phố, tước vũ khí của dân quân tự vệ, giao lại cho quân đội Pháp quyền giữ gìn trật tự ở thủ đô Việt Nam.

Chiều ngày 19 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cả nước:

“ Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới và chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước.

Giờ cứu nước đã đến! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta ”.

Cho đến thời điểm ấy, cuộc kháng chiến chỉ giới hạn ở miền Nam, nay lan rộng ra cả nước.

Nước Cộng hòa dân chủ Việt Nam vừa mới ra đời đã phải chịu đựng một thử thách quyết định: chiến tranh chống một cường quốc đế quốc được vũ trang mạnh mẽ, vượt xa mình không biết bao nhiêu lần về kỹ thuật và kinh tế.