Chương 15 Cuộc kháng chiến thứ nhất (1945 - 1954) - Sơ lược
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Xâm lược bắt đầu ngày 23 tháng 9 năm 1945 ở Nam Bộ, được mở rộng ra toàn quốc từ ngày 19 tháng 12 năm 1946, đánh dấu một giai đoạn quyết định của cuộc đấu tranh diễn ra từ gần một thế kỷ nay để giành lại nền độc lập và dân chủ hóa đất nước. Tuy cuộc đấu tranh vũ trang phải được đặt lên trên các vấn đề khác, nhưng việc xây dựng kinh tế, văn hóa, việc thiết lập những cấu trúc chính quyền mới vẫn không kém phần quan trọng. Cũng như giải phóng dân tộc là mục tiêu hàng đầu, nhưng những nhiệm vụ dân chủ không vì thế mà kém phần quan trọng, nhất là cuộc đấu tranh lại do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo và khối liên minh công - nông là trụ cột của Mặt trận dân tộc thống nhất. Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, sau chiến thắng vĩ đại của Liên Xô chống chủ nghĩa phát xít, cuộc cách mạng dân chủ của Việt Nam năm 1946, dẫu chưa phải là xã hội chủ nghĩa, nhưng không còn có thể diễn ra trong khuôn khổ cách mạng dân chủ tư sản được nữa. Cuộc kháng chiến càng tiến lên, ý thức chính trị và tư tưởng của quần chúng nhân dân càng tiến bộ hơn, ý thức giai cấp của họ cũng phát triển cùng với tinh thần yêu nước. Vả chăng, những đòi hỏi về sức người, sức của ngày một tăng lên cùng với nỗ lực chiến tranh, vì vậy phải tiến hành những cải cách triệt để nhằm động viên tất cả mọi năng lực. Trên bình diện đối nội, tính chất dân chủ và nhân dân ngày càng rõ nét hơn. Nhà nước dân chủ nhân dân mạnh dần lên, sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân trở nên chính xác hơn, cụ thể hơn. Trên bình diện quốc tế, cuộc kháng chiến của Việt Nam tấn công vào chủ nghĩa thực dân Pháp đã giáng một đòn nặng vào hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Bởi thế, ngay từ những ngày đầu, người ta đã thấy chủ nghĩa đế quốc Anh-Pháp liên kết lực lượng với nhau và mưu đồ của đế quốc Mỹ chống lại cuộc kháng chiến đó. Cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam, cũng giống như cuộc đấu tranh của mọi dân tộc thuộc địa khác, hòa nhập vào cách mạng thế giới, nghĩa là gắn chặt với cuộc đấu tranh của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới. Tuy nhiên, năm 1946, nước Việt Nam còn bị cô lập về mặt địa lý, đế quốc Mỹ thì còn vướng bận vì nhiều mưu toan khác, chưa can thiệp sâu vào các vấn đề của Đông Dương. Cuộc chiến đấu chủ yếu là giữa nhân dân Việt Nam chống lại một mình thực dân Pháp. Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, làm đảo lộn sâu sắc tương quan lực lượng quốc tế. Cuộc kháng chiến của Việt Nam lúc đó có thể tựa lưng vào phe xã hội chủ nghĩa, phá tan vòng vây đang thắt chặt quanh mình. Hòng bù đắp lại thất bại của họ ở Trung Quốc, năm 1950, đế quốc Mỹ lơ mơ cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên và công khai can thiệp vào Đông Dương. Cuộc chiến tranh trở thành chiến tranh của Pháp-Mỹ chống nhân dân Việt Nam và cũng là chống cả phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á.
Như vậy, trên bình diện đối nội và đối ngoại, năm 1950 thật sự là một bước ngoặt lịch sử. Vì vậy, chúng tôi sẽ phân biệt hai giai đoạn chính trong quá trình cuộc ''Kháng chiến trường kỳ" này: Giai đoạn thứ nhất từ 1946 đến cuối năm 1950, cuộc kháng chiến Việt Nam củng cố dần dần những căn cứ quân sự, kinh tế, chính trị, hành chính và văn hóa của mình, giai đoạn thứ hai từ năm 1951 đến 1954, thời kỳ của những chiến thắng quân sự quan trọng có ý nghĩa quyết định và những cải cách sâu sắc trên bình diện kinh tế và xã hội. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, buộc chúng phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.