Những tiến bộ mới của kháng chiến
Sau khi Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được các nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận và sau chiến thắng biên giới, cuộc kháng chiến Việt Nam đã phát triển nhanh chóng.
Một sự kiện có tầm quan trọng hàng đầu đã diễn ra vào tháng 2 năm 1951: Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đại hội này xác định những phương hướng chính của cuộc kháng chiến trong những năm tới. Một quyết định có ý nghĩa quan trọng hàng đầu: Đảng Cộng sản Đông Dương tách làm 3 Đảng của 3 dân tộc: Việt Nam, Campuchia, Lào. Đảng của nước nào chịu trách nhiệm lãnh đạo cuộc chiến đấu dân tộc của nước đó. Năm 1930, vì phải chiến đấu chống sự thống trị của cùng bộ máy thực dân ở Đông Dương nên những người cộng sản ở ba nước phải tập hợp lại trong cùng một Đảng. Lúc này, cuộc chiến đấu chống Pháp đã gần ngày kết thúc, cả ba quốc gia sắp sửa giành lại được nền độc lập của mình, đã đến lúc thích hợp đế mỗi nước xây dựng một đảng của riêng mình, đồng thời vẫn duy trì sự hợp tác chặt chẽ giữa ba phong trào dân tộc. Đảng của Việt Nam lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
Đến tháng 3, Đại hội hợp nhất 2 Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thành một mặt trận dân tộc rộng rãi. Cũng trong tháng 3, Đại hội đoàn kết 3 dân tộc Việt Nam, Campuchia, Lào cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, đoàn kết chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Quan hệ ngoại giao và quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ngừng được cải thiện nhiều phái đoàn Việt Nam đi Trung Quốc, Triều Tiên, đi dự các cuộc Liên hoan thanh niên quốc tế ở Berlin, những Hội nghị kinh tế ở Matxcơva, các Đại hội hòa bình ở Áo, hoặc những hội nghị Công đoàn ở Ba Lan. Ở Hội nghị quốc tế nào, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập đều được các giới rất khác nhau nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ mạnh mẽ.
Trên bình diện kinh tế và tài chính, kể từ năm 1951, một loạt biện pháp đã tạo một sức đẩy mới cho cuộc sống ở các vùng tự do, đảm bảo đẩy mạnh sản xuất, đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của kháng chiến. Một phong trào thi đua được phát động trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, quân đội, lao động trí óc, kích thích mạnh mẽ đà sản xuất của mọi giới, đặc biệt là của nông dân.
Tình hình cũng bắt buộc Nhà nước phải đảm đương phần trách nhiệm ngày một lớn trong việc lãnh đạo các hoạt động kinh tế của đất nước và phải thực hiện có kết quả việc lành mạnh hóa nền tài chính đang bị nợ nần chồng chất vì lạm phát ngày càng tăng. Tháng 5 năm 1951, có những quyết định:
- Lập Ngân hàng Nhà nước.
Phát hành tiền mới, 1 đồng mới bằng 10 đồng cũ.
- Quy định một thứ thuế nông nghiệp duy nhất thay cho tất cả mọi thứ thuế và đóng góp khác đối với nông dân.
- Lập ngành Mậu dịch quốc doanh.
Phần thu nhập để trang trải các chi phí ngân sách không ngừng tăng lên: 23% trong năm 1950, 30% năm 1951, 82% năm 1952, 116% năm 1953.
Giá cả ổn định, chỉ số giá như sau: năm 1949 là 100, năm 1950 là 440, năm 1951, trước ngày phát hành đồng tiền mới là 464, mấy tháng cuối cùng của năm 1951, sau khi phát hành tiền mới là 360, năm 1952 là 335, năm 1953 là 115, năm 1954 là 92. Trong vùng Việt Bắc từ năm 1952 - 1953, giá lúa gạo hạ 35%, giá muối hạ 55%, giá hàng dệt hạ 30%.
Những trao đổi hàng hóa giữa các vùng tự do và vùng tạm chiếm được kiểm soát chặt chẽ để có lợi cho đồng tiền Việt Nam. Tinh thần yêu nước của nhân dân ở hai vùng và chủ nghĩa anh hùng của các cán bộ làm công tác này đã đem lại phần thắng cho cuộc đấu về tỷ lệ hối đoái giữa hai đồng tiền. Đồng Việt Nam được củng cố, trong khi đồng bạc của Ngân hàng Đông Dương bị mất giá, tụt từ 17 franc xuống 10, rồi 7 franc, mặc dầu có viện trợ to lớn của Mỹ.
Những biện pháp kinh tế không chỉ góp phần củng cố kháng chiến, mà còn tạo ra mầm mống của một khu vực quốc doanh, tiền đề của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa tương lai.
Trên bình diện văn hóa, cũng có một bước ngoặt quan trọng. Trong khi cuộc đấu tranh chống nạn mù chữ vẫn được tiếp tục, từ sau năm 1951, người ta chú ý nhấn mạnh việc bổ túc văn hóa cho cán bộ và chiến sĩ, cho những người đã biết đọc biết viết, nhằm tạo điều kiện cho lớp người xuất thân từ quần chúng nhân dân, có thể đảm nhiệm những trách nhiệm ngày càng quan trọng hơn. Ở các trường phổ thông, cuộc tổng cải cách được mở đầu từ năm 1950: thiết lập một ngành học phổ thông duy nhất 9 năm với những thay đổi quan trọng trong chương trình và phương pháp giảng dạy nhằm đào tạo những con người mới có khả năng gánh vác những nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Năm 1953, số học sinh ở các vùng tự do vượt quá 1 triệu; đến năm 1954, số sinh viên ở các trường cao đẳng lên đến 1.528 người. Có một số sinh viên được cử đi học ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Một sự kiện quan trọng trong lĩnh vực văn hóa sau năm 1951, là việc các nhà văn, nghệ sĩ và nhà khoa học ngày một ý thức sâu sắc hơn vế sự cán thiết phải gắn chặt hoạt động của mình với cuộc đấu tranh cách mạng của toàn dân. Năm 1946, sẵn lòng yêu nước nồng nàn, những con người này đã hy sinh cuộc sông đầy đủ tiện nghi của mình để đi theo kháng chiến. Tuy nhiên, trong những năm đầu, nhiều người vẫn còn giữ những quan niệm lỗi thời về lao động sáng tạo nghệ thuật. Năm 1948, những vấn đế này đã được ông Trường Chinh làm rõ trong bài phát biểu về “Chủ nghĩa Mác và những vấn đề văn hóa” Việt Nam, tại một đại hội văn hóa toàn quốc. Những mối tiếp xúc giữa các văn nghệ sĩ với các chiến sĩ quân đội nhân dân, với quần chúng, việc văn nghệ sĩ tham gia chiến đấu và sản xuất đã dần dần đưa đến những biến chuyển sâu sắc trong quan niệm của những người hoạt động văn hóa. Vả chăng bên cạnh các văn nghệ sĩ cũ đã xuất hiện một thế hệ mới sinh thành từ cuộc kháng chiến.
Một cuộc sống văn hóa mới nảy nở trong các vùng tự do. Trong từng đơn vị lực lượng vũ trang, trong từng làng xã, đã có những nhóm hoạt động nghệ thuật, những nhà văn và nghệ sĩ chuyên nghiệp hay nghiệp dư, sáng tác thơ ca, truyện ngắn; nhiều đội chiếu bóng lưu động hình thành. Những năm 1951 - 1952, việc đặt ra các giải thưởng văn học đã khẳng định giá trị nhiều tác phẩm mới của các nhà văn, nhà thơ trẻ, bên cạnh tác phẩm của các tác giả đã có tên tuổi. Trong điều kiện gay go của chiến tranh, những tác giả này chưa đủ thì giờ để sáng tạo nên những tác phẩm lớn, nhưng những bài thơ, truyện ngắn, truyện ký, phóng sự và một số tiểu thuyết được giải thưởng vào các dịp đó, đã biểu hiện một nguồn mạch mới trong nền văn học.
Trong khi cuộc kháng chiến Việt Nam ngày càng được tăng cường thì phía bên kia, Chính phủ bù nhìn Bảo Đại, mặc dù dựa vào những âm mưu thủ đoạn của Mỹ và những cố gắng của Pháp, vẫn không sao vững chắc được. Quyền lực thực sự như quyền chỉ huy quân sự vẫn nằm trong tay người Pháp; Bảo Đại đành bằng lòng với việc sang Pháp giết thời giờ trong các sòng bạc ở các thành phố nghỉ mát.