← Quay lại trang sách

Chiến tranh và cải cách ruộng đất

Cuối tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hai phương hướng chiến lược được đưa ra thảo luận:

- Hoặc tập trung đại bộ phận quân chính quy để chống địch đang dồn sức mạnh tấn công vùng châu thổ miền Bắc, đe dọa các vùng tự do.

- Hoặc tránh đụng đầu giữa quân chính quy của chúng ta với kẻ thù trong vùng châu thổ là nơi mà điều kiện chiến đấu có lợi cho địch; chỉ giữ lại đó các lực lượng khu vực và địa phương để quấy rối, tiêu hao lực lượng địch, tung các lực lượng chính quy vào những hướng quân địch không được che chắn do đó buộc chúng phải phân tán lực lượng, rút quân khỏi các vùng tự do mà trước đó địch có thể đã tạm thời chiếm được.

Những cuộc đánh phá của Navarre vào các vùng khác nhau được xem không phải như những đòn tấn công mà là những cuộc hành quân chống đỡ, nhằm ngừa trước những đòn tấn công có thế có của kháng chiến Việt Nam. Như vậy, mặc cho những vẻ bề ngoài thế nào, chính đối phương mới là kẻ đang ở thế phòng thủ và ta phải tìm cách tích cực tấn công tiêu diệt kẻ thù chứ không phải thụ động đối phó với những kế hoạch chủ động của nó. Hướng chiến lược thứ hai được thông qua.

Những vùng tự do và vùng tạm bị chiếm phải dựa vào sức mình là chính để chống lại kẻ thù. Quân chính quy được tung ra tấn công theo hướng miền núi: Tây Bắc ở Bắc Bộ, Cao Nguyên ở Trung Bộ; mặt khác, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Pa-thét Lào, tấn công vào các vùng Thượng và Trung Lào. Trong lúc đó, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp nơi trong nước, miền Bắc cũng như miền Nam. Thế là chiến trường bao gồm không chỉ Việt Nam mà toàn bộ Đông Dương; phải huy động hàng triệu người vào chiến tranh du kích, làm lại đường sá, đảm bảo việc tiếp tế cho các đơn vị chiến đấu thường ở cách xa căn cứ tiếp tế hàng trăm cây số. Bởi vì tuyệt đại bộ phận dân số và tài nguyên đất nước tập trung ở những vùng đồng bằng, nhưng các chiến trường lại ở những vùng rừng núi xa xôi. Quy mô của những cuộc hành quân, thời gian của các chiến dịch đòi hỏi khối lượng tiếp tế, số nhân lực phải huy động cả về các lực lượng vũ trang và dân công vượt quá quy mô của những chiến dịch trước đó. Như việc mở con đường Yên Bái - Sơn La cần đến 2 triệu ngày công, việc mở con đường nối liền Quân khu II với Quân khu III đòi hỏi 2.600.000 ngày công.

Để chiến thắng máy bay, xe tăng, pháo binh, những đơn vị thiện chiến của địch, chủ yếu phải dựa vào chủ nghĩa anh hùng, lòng kiên nhẫn và óc sáng kiến của các chiến sĩ và của toàn dân. Phải làm cho cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới.

Cuộc cải cách ruộng đất được ban bố.

Nông dân lao động chiếm đại bộ phận trong nhân dân, là động lực chủ yếu của cuộc cách mạng, đã đóng góp cho kháng chiến lớn nhất. 90% số chiến sĩ là nông dân. Giờ đây, khi cuộc kháng chiến đòi hỏi ở mọi người, đặc biệt ở giai cấp nông dân những nỗ lực mới, vấn đề quan trọng là phải có những biện pháp triệt để hơn để cải thiện đời sống của họ. Những biện pháp đó cũng có khả năng thực hiện, bởi vì ý thức chính trị và tư tưởng của nông dân sau nhiều năm kháng chiến đã có những tiến bộ lớn.

Nói đúng ra, như chúng tôi đã nêu lên ở trên, từ năm 1946, nhiều biện pháp đã được thực hiện có lợi cho nông dân: giảm tô, chia ruộng đất công một cách công bằng, tạm thời chia cho những nông dân nghèo các ruộng đất của thực dân và bọn phản quốc, của địa chủ chạy trốn sang vùng địch chiếm đóng, cũng như các ruộng đất bỏ không, giảm tức, xóa bỏ một vài thứ nợ. Hàng trăm nghìn hecta đất đã được cấp phát cho nông dân nghèo. Tuy vậy, các địa chủ vẫn còn giữ một phần ruộng đất khá lớn tiếp tục bóc lột nhân dân và chính quyền thôn xã một phần vẫn còn trong tay họ; tình hình đó cản trở việc áp dụng các biện pháp nông nghiệp mà Nhà nước đã ban bố.

Vả lại, việc áp dụng các biện pháp dân chủ càng tiến tới thì phản ứng của thế lực phong kiến càng mạnh và đế quốc Mỹ càng tăng cường can thiệp, chiến tranh càng mở rộng thì bọn địa chủ phản động lại càng đẩy mạnh những hoạt động phản dân tộc. Một số trong bọn họ lập ra ở các vùng tự do những đảng phản động hoặc làm gián điệp cho địch. Cuộc đấu tranh giai cấp trở nên quyết liệt hơn, việc xóa bỏ giai cấp phong kiến trở thành một đòi hỏi tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc.

Cho đến lúc này, khi Nhà nước ban bố những biện pháp về ruộng đất, người ta chỉ mới chịu làm mỗi một việc là giải thích thuyết phục các địa chủ. Kinh nghiệm đã cho thấy: nhiều địa chủ đã phàn nàn kêu ca hoặc thậm chí ít nhiều ra mặt chống đối. Chỉ có một cuộc phát động quần chúng nông dân mới có thể đập tan được sự chống đối đó và xóa bỏ hẳn được chế độ phong kiến cản trở tiến bộ xã hội và công cuộc giải phóng dân tộc. Ngày 1 tháng 12 năm 1953, Quốc hội thông qua Luật Cải cách ruộng đất.

Nhiều đợt “chỉnh huấn”, nhiều cuộc hội nghị quần chúng được tổ chức trong quân đội, trong nhân dân. Trong các buổi sinh hoạt này, nông dân gợi lại những nỗi khốn khó và nhục nhã của mình, vạch trần hành vi tham nhũng và tội ác của địa chủ, cường hào, những xấu xa của chế độ cũ. Từ cuối năm 1953, ở các tỉnh Thái Nguyên và Thanh Hóa, giữa trung tâm vùng tự do, người ta tiến hành thí điểm cải cách ruộng đất. Việc giảm tô và chia ruộng đất đi đôi với việc nông dân nghèo lên nắm chính quyền ở nông thôn. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam một cuộc cải cách ruộng đất triệt để được phát động dẫn đến việc xóa bỏ một chế độ đã có từ hàng ngàn năm, mở đường cho sự phát triển mới của các lực lượng sản xuất và cho việc giải phóng giai cấp nông dân.

Phát động quần chúng thực hiện cuộc cải cách ruộng đất đã tạo nên một niềm phấn khởi lớn trong nông dân và trong các chiến sĩ, thúc đẩy mạnh mẽ cuộc kháng chiến. Hàng trăm ngàn nông dân nhập ngũ chiến đấu hoặc đi tiếp tế cho những đơn vị đang chiến đấu ở rất xa căn cứ, đi làm đường sá ở những vùng rừng núi dưới bom đạn ác liệt của máy bay địch.

“ Chưa bao giờ thấy có một làn sóng người Việt Nam đi ra mặt trận đông đảo như vậy. Chưa bao giờ thanh niên chúng ta làm được bấy nhiêu đường sá, đi qua bấy nhiêu vùng đất lạ như vậy ngay trên đất nước của mình. Từ đồng bằng đến miền núi, trên các nẻo đường lớn nhỏ, dọc các sông, suối đâu đâu người la cũng vội vàng hối hả: hậu phương rót người và của ra tiền tuyến để thảm gia với quân đội tiêu diệt quân thù và giải phóng lãnh thổ? Hậu phương truyền đến tận người chiến sĩ ở tuyến đầu ý chí quyết thắng, tinh thần kháng chiến tuyệt vời và niềm phấn khởi do cải cách ruộng đất tạo nên ” ( Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ , xuất bản 1962).

Điện Biên Phủ

Chính trong bầu không khí sục sôi cách mạng ấy, Bộ chỉ huy Việt Nam đã vạch ra kế hoạch chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954. Như ta đã dự kiến, những đòn do quân địch tung ra đánh vào các vùng tự do ở Lạng Sơn, Ninh Bình đều không đi đến đâu; các lực lượng của Pháp tung ra bị đánh đau, lại phải rút về ngay lập tức.

Tháng 11 năm 1953, quân đội Việt Nam tấn công vào Tây Bắc, giải phóng thị xã Lai Châu và như đã dự đoán, Bộ chỉ huy Pháp buộc phải gấp rút chi viện cho vùng này; ngày 20 tháng 11, hướng Navarre cho 6 tiểu đoàn dù nhảy xuống Điện Biên Phủ, một căn cứ cô lập giữa vùng rừng núi Tây Bắc. Ngày 21 tháng 11, phối hợp với quân đội Pha-thét Lào, các lực lượng Việt Nam tấn công vào Trung Lào, giải phóng tỉnh Khăm Muộn và thị xã Thà Khét. Navarre cấp tốc cho nhiều tiểu đoàn tăng viện cho cứ điểm Seno. Trong vòng tháng Giêng năm 1954, các lực lưowjng liên quân Lào-Việt giải phóng thị xã Attôpơ và Cao nguyên Bôlôven.

Về phía Bộ chỉ huy Pháp, chúng cho rằng cuộc tấn công của quân đội Việt Nam đã bắt đầu chững lại, bèn mở chiến dịch ''Atlant'': 20 tiểu đoàn bộ binh, 4 đội pháo binh, 3 tiểu đoàn cơ giới, đánh vào Liên khu V ở Trung Bộ, nơi có nhiều tỉnh tự do. Theo đúng chỉ thị của ủy ban Trung ương, chỉ một lực lượng nhỏ quân đội nhân dân ở lại tại chỗ để đối phó với quân địch đại bộ phận quân chủ lực mở cuộc tấn công vào Tây Nguyên, giải phóng tỉnh Kon Tum. Navarre buộc phải điều gấp 13 tiểu đoàn chi viện cho Plâyku.

Trong khi các hoạt động quân sự này đang diễn ra, cả hai phía Pháp và Việt Nam phía nào cũng tìm một địa điểm có thể tiêu diệt nhiều sinh lực quan trọng của đối phương, khi có điều kiện thuận lợi. Tướng Navarre cho rằng Điện Biên Phủ là nơi có thể dụ các lực lượng Việt Nam vào bẫy và Bộ chỉ huy Việt Nam cũng quyết định mở một trận quyết chiến ở đấy. Người ta chờ đón cuộc đương đầu vào cuối tháng Giêng năm 1954. Nhưng các lực lượng Việt Nam lại tiến về phía Thượng Lào, đe dọa Luông Prabang; Navarre lại phải điều lực lượng Pháp để bảo vệ thành phố Lào này.

Như vậy là vào cuối tháng Giêng năm 1954, Navarre vốn có ý định tập trung các đơn vị thiện chiến của mình trên chiến trường miền Bắc, lại phải phân tán chúng ra khắp Đông Dương. Vả chăng, suốt Đông Xuân năm 1953 - 1954, chiến tranh du kích được tăng cường mạnh mẽ, đặc biệt ở châu thổ sông Mê Kông và sông Hồng. Đường số 5 nối liền Hà Nội với Hải Phòng, con đường huyết mạch tiếp tế chính của quân đội viễn chinh Pháp, liên tiếp bị tấn công. Trong các ngày 4 và 7 tháng 3 năm 1954, các chiến sĩ đặc công gan dạ Việt Nam đã đột nhập các sân bay Cát Bi và Gia Lâm phá hủy mấy chục máy bay, giáng một đòn đau vào cầu hàng không của Pháp tiếp tế cho Điện Biên Phủ.

Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Pháp vẫn còn lạc quan. Trong tờ Caravelle , bản tin của đội quân viễn chinh Pháp, có đoạn viết:

“ Bộ chỉ huy Việt Nam buộc phải di chuyển các đơn vị của họ và phải tiếp tế cho những đơn vị ấy trên những khoảng cách rất xa, qua nhiều vùng khó khăn, nghèo khổ và thiếu đường giao thông..., một chiến dịch mở trong những điều kiện như vậy chỉ có thể diễn biến có lợi cho chúng ta mà thôi... ”

Từ những vùng đồng bằng, cơ sở hậu cần rủa các lực lượng Việt Nam, đến Điện Biên Phủ, cách xa 500 cây số băng qua núi từng với những con đường cheo leo nguy hiểm, bị máy bay địch đánh phá không ngớt. Mọi lương thực và đạn dược đều phải chở trên lưng người, trên xe đạp, trên thuyền, đôi khi trên xe tải. Hơn nữa, Điện Biên Phủ là một lòng chảo, xung quanh có những ngọn đồi cao trên 1.000m bao bọc, làm sao có thể kéo pháo ngược lên tận những đỉnh núi ấy để từ đó bắn thẳng xuống các vị trí của địch đã được tăng cường, dưới hỏa lực của pháo và xe tăng địch? Những vấn đề về tiếp tế, về chiến thuật dường như là nan giải đối với Bộ chỉ huy Việt Nam. Tháng 2 năm 1954, tập đoàn cứ điểm này tiếp đón viên tướng Mỹ O. Daniel đến thăm. Viên tướng này tuyên bố “phấn khởi” về những triển vọng của trận đánh sắp tới. Ngày 12 tháng 3, Bộ chỉ huy Pháp vẫn luôn luôn lạc quan, cho đổ nhiều đơn vị mới vào mặt trận ở miền Trung Việt Nam, ở Quy Nhơn, trong khuôn khổ chiến dịch ''Atlante''.

Về phía Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng và sự kiên trì của hàng trăm ngàn con người vừa nam vừa nữ đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn để tiếp tế cho bộ đội, để đưa pháo vào trận địa. Ngày 13 tháng 4, đòn tấn công đầu tiên đánh vào các vị trí vòng ngoài của Điện Biên Phủ, Him Lam (được gọi là Béatrice). Người Pháp hoàn toàn bị bất ngờ, không tưởng tượng được làm cách nào người ta bố trí được những cỗ pháo lớn như thế trên những đỉnh núi dốc, đã ngụy trang chúng một cách tuyệt vời và không ngờ đối phương lại có thể đào tạo được nhiều pháo thủ trong thời gian ngắn như vậy! Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, vị trí địch bị diệt gọn. Ngày 14, một vị trí ngoại vi thứ hai, đồi Độc Lập (Gabriel) cũng bị hạ. Ngày 17, đồn Bản Kéo (Anne Marie), vị trí ngoại vi thứ ba, đầu hàng. Tất cả các đồn bốt bảo vệ vòng ngoài, nằm ở Bắc và Đông Bắc tập đoàn cứ điểm đều bị nhổ sạch.

Còn lại khu vực trung tâm Mường Thanh và khu Nam Hồng Cúm. Làm sao có thể tiến sát được khu này qua một cánh đồng bằng phẳng luôn luôn bị đạn súng lớn và pháo xe tăng của địch chà quét? Các lực lượng Việt Nam bắt tay vào việc đào một hệ thống giao thông hào bắt đầu từ những ngọn đồi xung quanh, xuyên qua cánh đồng để đưa lực lượng tấn công bao vây gần các vị trí địch. Hơn 100 kém hào được đào như vậy dưới làn đạn địch. Vòng vây xiết chặt lại một cách quyết liệt quanh cái căn cứ được tiếp tế bằng một cầu hàng không, trong khi đó thì trên các mặt trận ở châu thổ sông Hồng, ở Tây Nguyên, tình thế của quân đội Pháp xấu đi rất nhanh.

Bộ Tham mưu Pháp lo lắng bèn cử Tướng Ely sang Washington cầu xin viện trợ Mỹ. Với sự đồng ý của tổng thống Mỹ Eisenhower, dự án mang tên “Vautour” (Diều hâu) được vạch ra, dự định đưa không quân Mỹ vào tham chiến để cố gắng cứu Điện Biên Phủ.

Ngày 30 tháng 3 năm 1954, sau khi đã chuẩn bị xong, các lực lượng Việt Nam mở đợt tấn công thứ hai đánh chiếm những cao điểm bảo vệ mặt Đông khu vực trung tâm. Đây là những điểm phòng vệ then chốt của địch nên trận đánh diễn ra quyết liệt: Các đồi C1 (Eliane1), nhất là A1(Eliane2) bị hai bên giành giật nhiều lần. Đến giữa tháng 4, các phòng tuyến của quân Việt Nam tiến sát sân bay trung tâm là nơi nhận tiếp tế cho cả tập đoàn cứ điểm của Pháp. Quân Pháp mở nhiều đợt phản công dữ dội hòng chiếm lại sân bay nhưng vô hiệu. Một phần khá lớn lương thực và khí giới Pháp thả dù xuống, rơi vào các phòng tuyến của quân Việt Nam. Không quân Pháp dốc lực bắn phá các phòng tuyến và các con đường, nhưng các chiến sĩ Việt Nam bám chắc vị trí của mình và các đoàn tiếp tế của họ vẫn đi tới đích. Ngày 15 tháng 4 năm 1954, một viên tướng Mỹ tới Hà Nội bàn về việc thực hiện kế hoạch ''Diều hâu''. Tuy nhiên, người ta đã phải thừa nhận rằng ngay cả sự can thiệp của máy bay ném bom cũng sẽ không làm thay đổi được gì nhiều tình thế trên mặt trận Điện Biên Phủ. Mặt khác dư luận Pháp và thế giới ngăn cản không cho các Chính phủ Pháp và Anh mù quáng thực hiện phương án của bọn hiếu chiến ở Washington. Chiên dịch ''Diều hâu" bị hủy bỏ.

Ngày 1 tháng 5, giai đoạn thứ 3 của cuộc tấn công bắt đầu. Các đồi A1 (Eliane 2), C1 (Eliane 1) cũng như nhiều vị trí khác bị đánh chiếm. Buổi chiều ngày 7 tháng 5, trong trận tấn công cuối cùng, các lực lượng Việt Nam chiếm được sở chỉ huy của địch bắt sống toàn thể Bộ tham mưu của địch và tướng De Castries. Các cứ điểm kéo cờ trắng đầu hàng. Đêm đó, toàn bộ quân địch ở khu Nam bị bắt làm tù binh không sót một tên.

Người Pháp đã mất ở Điện Biên Phủ những đơn vị tinh nhuệ nhất của họ: tổng số là 16.200 người trong đó có 1 tướng, 16 đại tá, 1749 sĩ quan và hạ sĩ quan. Trong suốt chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, chiến sự diễn ra ác liệt trên tất cả các mặt trận. Đặc biệt trên cao nguyên Tây Nguyên, quân đội Việt Nam đã tiêu diệt hoàn toàn binh đoàn cơ động 100 được rút từ Triều Tiên sang. Chiến tranh du kích ở các châu thổ sông Hồng và sông Mê Kông, ở Bình Trị Thiên đạt đến quy mô của chiến tranh chính quy. Tổn thất của đạo quân viễn chinh Pháp và của bù nhìn trong chiến dịch này là rất lớn: 112.000 người, 117 máy bay.

Chiên thắng Điện Biên Phủ và những thắng lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, buộc Chính phủ Pháp phải đồng ý chấm dứt chiến tranh.