← Quay lại trang sách

Hội nghị Genève (Giơnevơ)

Ngay từ cuối năm 1953, việc mở rộng không ngừng các cuộc hành quân và những thất bại của Pháp đã gây nên nhiều xáo động sâu sắc trong dư luận Pháp. Sự phản đối chiến tranh ngày càng lan rộng trong giới xưa nay vốn thuộc về cánh hữu; phe chủ trương “đánh đến cùng” rất thân Mỹ mà đại diện là nội các Laniel-Bidault ngày càng bị cô lập. Dư luận thế giới lo lắng sâu sắc, đòi lập lại hòa bình.

Ngày 26 tháng 11 năm 1953, trả lời phỏng vấn của tờ báo Thụy Điển Express, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố:

“ Nếu Chính phủ Pháp đã rút được những bài học qua mấy năm chiến tranh vừa rồi, muốn ký một hiệp định đình chiến và giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng thì nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng xem xét những đề nghị của phía Pháp... Cơ sở Của một cuộc đánh chiến là Chính phủ Pháp Phải thực sự tôn trọng nền độc lập của Việt Nam... ”

Trước dư luận Pháp và Quốc tế, Chính phủ Laniel-Bidault không thể trốn tránh trách nhiệm của họ. Tháng 2 năm 1954, tại hội nghị Berlin, các Chính phủ Pháp và Mỹ phải chấp nhận rằng vấn đề Đông Dương sẽ được xem xét vào tháng 4 tới ở hội nghị Giơnevơ.

Ngày 26 tháng 4 năm 1954, hội nghị Giơnevơ họp bàn về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Người Mỹ và Chính phủ Laniel-Bidault tìm mọi cách phá hoại hội nghị, thậm chí từ chối mọi tư cách đại diện của kháng chiến Việt Nam. Người Mỹ vận động nhằm thay thế bọn bù nhìn thân Pháp ở Việt Nam bằng những phần tử tay sai của họ để tiếp tục chiến tranh. Những chiến thắng vang dội của các lực lượng Việt Nam đã chặn đứng mọi hoạt động phá đám của bọn hiếu chiến Pháp- Mỹ. Ngày 8 tháng 5 năm 1954, 24 giờ sau khi Điện Biên Phủ thất thủ Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương khai mạc. Nhân danh nhân dân và Chỉnh phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Phạm Văn Đồng nêu rõ lập trường của phía Việt Nam.

Chính phủ Laniel-Bidault, ngoan cố đeo đuổi chính sách chiến tranh, đã bị quốc hội Pháp lật đổ ngày 8 tháng 6; Mendes-France lên làm Thủ tướng, phải chấp nhận hòa bình. Người Mỹ cố tìm cách phá hoại hội nghị nhưng vô hiệu. Đêm ngày 20 rạng sảng ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Chín quốc gia tham dự hội nghị: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pháp, Liên Xô, Anh, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Mỹ, Campuchia, Lào và Chính phủ Bảo Đại.

Các bên thương lượng chính là Pháp, Việt Nam và Tướng Quốc. Người Hoa Kỳ có mặt chủ yếu là để phá hội nghị. Vì các bờ biển và các hải cảng của Việt Nam bị các lực lượng đế quốc phong tỏa, Việt Nam nhận viện trợ của nước ngoài duy nhất chỉ bằng con đường Trung Quốc, do đó cường quốc này đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hội nghị.

Từ ngày 8 tháng 5 đến ngày 23 tháng 6 năm 1954, các đại diện Pháp đã từ chối không chịu gặp các đại diện Việt Nam, nhưng lại thương lượng kéo dài với người Trung Quốc ở Giơnevơ và hai bên đã đi đến thỏa thuận trên những nét lớn của một bản thỏa hiệp mà cả Pháp lẫn Trung Quốc có thể chấp nhận được; phần phía Nam của Đông Dương, bao gồm Nam Việt Nam và Campuchia, sẽ nằm trong vùng ảnh hưởng của Pháp, nửa phía Bắc của Việt Nam và hai tỉnh của Lào sẽ do các lực lượng yêu nước của Việt Nam và Lào kiểm soát. Như thế là vùng biên giới phía Nam của Trung Quốc sẽ được bảo vệ bởi những vùng đệm dưới sự kiểm soát của những lực lượng mà Bắc Kinh có thể giám sát được dễ dàng.

Phái đoàn Việt Nam phải đấu tranh để giành cho được nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, nhưng đã không thể tranh được việc chia cắt đất nước, cũng không thể đòi được cho các lực lượng yêu nước Campuchia một khu vực tập kết tự chủ.

Các hiệp định được ký kết gồm có những điều khoản quân sự và chính trị.

Về phương diện quân sự, Hiệp định quy định tập kết lực lượng của hai bên vào hai vùng khác nhau, phía Bắc và phía Nam vĩ tuyến 17, nhằm tách rời hai đội quân hiện diện, do tính chất đặc biệt của cuộc chiến tranh, đang đan xen gài răng lược vào nhau. Việc tập kết phải hoàn thành trong thời hạn 300 ngày.

Về phương diện chính trị, Hiệp định thừa nhận độc lập, chủ quyền và toan vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia. Bất cứ trường hợp nào cũng không cho phép coi giới tuyến ở vĩ tuyến 17 là một biên giới chính trị; chậm nhất là đến tháng 7 năm 1956, các cuộc tổng tuyển cử tự do bằng phiếu kín sẽ lập nên một Chính phủ thống nhất cho nước Việt Nam.

Trong khi chờ đợi được thống nhất, cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam không được tham gia vào một liên minh quân sự nào; trên cả hai miền, không được thiết lập một căn cứ quân sự nước ngoài nào, cũng không được đưa vào một vật dụng chiến tranh mới hoặc một nhân viên quân sự nước ngoài nào.

Mặc dù tất cả những hạn chế đối với sự nghiệp giải phóng đất nước, Hiệp định Giơnevơ vẫn là một thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam nay đã có nửa phần phía Bắc của đất nước sẽ trở thành hậu phương lớn để tiếp tục cuộc chiến đấu cho đến ngày hoàn thành công cuộc giải phóng đất nước.

Thế là sau chín năm chiến tranh, đế quốc Pháp đã buộc phải thừa nhận tính chất hão huyền trong mưu toan của họ chinh phục lại nước Việt Nam. Từ chín năm chiến tranh ấy, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, đã rút ra những kết luận sau đây:

“ Nhân dân ta và quân đội ta đã đánh thắng một kẻ địch rất hùng mạnh về vật chất, bởi vì đồng bào và quân đội chúng ta đã quyết tâm chiến đấu và chiến thắng vì độc lập dân tộc, để đem lại ruộng đất cho nông dân, vì hòa bình và vì chủ nghĩa xã hội. Kẻ địch đã vấp phải khối đoàn kết của tất cả các giai cấp xã hội, tất cả các khuynh hướng chính trị và tôn giáo. Chúng ta có một đảng Mác-xít Lêninnít đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biết vận dụng tài tình một đường lối chính trị và quân sự đúng đắn.

Vả chăng chúng ta đang sống ở một thời kỳ mà bọn đế quốc không còn có thể làm mưa làm gió được nữa. Một tập hợp nhiều nước xã hội chủ nghĩa rất hùng mạnh về chính trị và vật chất, một phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao như một ngọn sóng thần, tạo ra cho các dân tộc bị áp bức một tình huống cực kỳ thuận lợi cho cuộc đấu tranh của mình. Cuộc đấu tranh nhân dân do quân đội của nhân dân tiến hành có thể được coi đúng như là một trong những chiến quả có tính quyết định, quan trọng hơn bất cứ một thứ vũ khí nào, đối với các nước châu Á, Phi và Mỹ La tinh. Nhân dân Việt Nam,chiến đấu để tự giải phóng mình lấy làm tự hào đã góp phần vào sự nghiệp giải phóng của các dân tộc anh em.

Tôi tin rằng ở thời đại chúng ta, không một đội quân đế quốc nào, dẫu hùng cường đến mấy, không một vị tướng đế quốc nào, dẫu tài giỏi đến mấy, có thể đánh thắng được một dân tộc nhỏ yếu nhưng biết kiên quyết đứng lên, đoàn kết với nhau chiến đấu theo một đường lối chính trị và quân sự đúng đắn. Kinh nghiệm của chúng ta đã chỉ cho chúng ta biết rằng không thể nuôi một chút ảo tưởng nào ở thiện chí của bọn đế quốc. Chủ nghĩa thực dân dưới những hình thức mới của nó, còn nguy hiểm hơn chủ nghĩa thực dân cũ và các dân tộc phải sẵn sàng để chiến đấu chống lại nó. Không được để cho mình bị chi phối vì ấn tượng về sức mạnh của nhũng vũ khí hiện đại, chính giá trị của con người mới là điều kiện cuối cùng quyết định thắng lợi ”.