← Quay lại trang sách

Văn học nghệ thuật

Cách mạng Tháng Tám 1945, đã giải phóng các nhà văn và nghệ sĩ khỏi môi trường chật hẹp và ngột ngạt dưới chế độ thuộc địa mà họ đã vẫy vùng hòng thoát ra, đặc biệt từ sau khi đại chiến thế giới lần thứ II nổ ra. Hầu như tất cả các nhà văn và nghệ sĩ có tên tuổi đều đã rời khỏi thành phố để tham gia cuộc kháng chiến lần thứ nhất. Chiến đấu, sinh hoạt hàng ngày gần gũi quần chúng và công tác chính trị, tư tưởng đã dần dần làm biến đổi hoàn toàn các nghệ sĩ của chế độ cũ trong khi những nhà văn, nghệ sĩ được đào tạo ngay trong ngọn lửa của cuộc kháng chiến dần dần nổi lên.

Năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, việc xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội đã tạo điều kiện cho đời sống văn hóa phát triển. Những cuộc triển lãm, những đại hội, liên hoan cũng như các chuyên san, các nhà xuất bản ngày càng nhiều. Nhà nước Trung ương và cấp tỉnh đài thọ các đơn vị nghệ thuật, sân khấu, âm nhạc, ca múa, thành lập những trường nghệ thuật, những cơ quan, những trường quay để phát triển ngành điện ảnh. Các đội văn nghệ nghiệp dư hình thành ở các xí nghiệp, các xã, các đơn vị quân đội. Chưa bao giờ người ta được chứng kiến một cảnh tượng sôi nổi như vậy.

Sự can thiệp của Mỹ và mặc dầu đất nước bị chia cắt, đã không thể bẻ gẫy được tính thống nhất dân tộc và cách mạng của phong trào nghệ thuật, các tác phẩm ra đời trong thời kỳ 1954 - 1975, ở miền Bắc cũng như ở các vùng giải phóng miền Nam, đều từ một nguồn chảy ra. Những luận văn chính trị, đặc biệt của các nhà lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Lê Quẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, với văn phong súc tích, ngôn ngữ tinh tế, đã là những tác phẩm văn học đánh dấu một thời kỳ.

Hiện thực dân tộc và cách mạng, cuộc chiến đấu quyết liệt và anh dũng của toàn dân chống bọn xâm lược, đặc biệt chống sự can thiệp của Mỹ, công cuộc lao động xây dựng một xã hội mới, đã là những đề tài chính của các nhà văn và nghệ sĩ. Thời kỳ của những mộng mơ lãng mạn, của dòng văn học bí hiểm, của nghệ thuật vị nghệ thuật đã qua hẳn rồi. Nhưng nếu việc thể hiện bằng văn học, nghệ thuật cuộc kháng chiến của dân tộc là tương đối dễ, thì đối với việc xây dựng xã hội mới, con người mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội là những công cuộc chỉ mới bắt đầu, sự thể hiện khó khăn hơn nhiều. Trong lĩnh vực này, những biến đổi của các làng xã, những vấn đề của giới nông dân thường được phản ánh nhiều hơn và dễ hơn so với những vấn đề về công nghiệp và giới công nhân. Một vấn đề nữa được đặt ra, nhất là trong nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, là phải vừa bảo vệ di sản truyền thống, vừa hiện đại hóa đi sản đó. Đấy là những vấn đề đặc thù đặt ra cho một nền văn học và nghệ thuật đang trên đà phát triển. Chính là với ánh sáng của cuộc chiến đấu hiện tại, người ta mới biết đánh giá đúng di sản do tổ tiên để lại; và cũng chỉ bằng cách tiếp tục truyền thống dân tộc mới có thể thực sự hiện đại hóa nền văn hóa ngày nay.

Thời kỳ 1945 - 1950, đã được đánh dấu bằng những tác phẩm ngắn gọn: Thơ, truyện ký, truyện ngắn. Từ 1950 trở đi, mới xuất hiện những tiểu thuyết đầu tiên. Phương hướng mới đã được xác định là phải tạo nên một nền văn hóa dân tộc, khoa học và đại chúng. Thời kỳ 1954 - 1960, cuộc kháng chiến lần thứ I vẫn là nguồn cảm hứng cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Sau thời kỳ này, bắt đầu xuất hiện trong các truyện ngắn, tiểu thuyết, phim, điện ảnh... những vấn đề của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là của các hợp tác xã nông nghiệp. Những băn khoăn do dự của người nông dân trước khi vào hợp tác xã, xung đột giữa các thế hệ trẻ và già, sự tìm tòi và những tranh chấp, lòng hăng say của cán bộ và việc đề bạt cán bộ nữ đều được miêu tả với ít nhiều sinh động và tinh tế. Từ 1965 đến 1975, số thơ, truyện ký, truyện ngắn, phim, điện ảnh viết về cuộc chiến đấu chống Mỹ tăng lên, ở miền Nam cũng như ở miền Bắc. Nhiều khi chỉ qua cuộc đời và những trận chiến đấu của một chiến sĩ là đã đủ gợi cảm hứng tạo nên một tác phẩm đẹp, bởi vì chỉ riêng hiện thực của cuộc chiến đấu đã rất phong phú và dễ gây xúc động.

Trên lĩnh vực thơ ca, trong khi Tố Hữu vẫn là nhà thơ đầu đàn, thì những người thuộc thế hệ lãng mạn trước 1945, đã có một sự chuyển hóa sâu sắc; Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Huy Cận... giờ đây ca ngợi với đầy nhiệt tình và tài năng những vị anh hùng và những chiến công của cuộc cách mạng đang tiến bước. Hòa nhập với các bậc đàn anh đó là cả một tao đàn những nhà thơ trẻ, ít nhiều còn vụng về trong cách diễn đạt; nhiều người trong số họ xuất thân từ những gia đình công nhân, nông dân, hoặc thuộc các nhóm dân tộc thiểu số như Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoan. Từ miền Nam ra, thơ của Thanh Hải, Giang Nam, Thu Bồn gây được tiếng vang sâu xa trong cả nước. Một thế hệ nhà thơ-thiếu nhi ra đời trong đó Trần Đăng Khoa là nổi tiếng nhất.

Tiểu thuyết, ký sự, truyện ngắn đã đến mùa nở rộ. Các bậc trưởng lão từ trước 1945, như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân... vẫn tiếp tục sáng tác. Nhiều tài năng đã tự khẳng định trong cuộc kháng chiến lấn I, như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Văn Bổng, Võ Huy Tâm, Nam Cao, và sau 1954, nhiều người trẻ hơn nữa đã nổi lên: Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Chu Văn, Vũ Thị Thường, Bùi Đức Ái... Từ miền Nam gửi ra có những tiểu thuyết và truyện ngắn của Anh Đức, Nguyễn Thi, Phan Tứ, Nguyễn Trung Thành... phản ánh một cuộc chiến đấu đặc biệt gay go. Một thế loại mới ra đời cùng với chế độ nhân dân, đó là văn học phục vụ thiếu nhi; Nhà xuất bản Kim Đồng chuyên về thể loại này, trong 15 năm (từ 1958) đã xuất bản khoảng 1000 đầu sách.

Cùng với cách mạng, đã diễn ra một sự đổi mới sâu sắc của các ngành nghệ thuật âm nhạc, sân khấu. Việc phục hồi, tôn tạo di sản dân tộc được thực hiện trên quy mô lớn, ca khúc cách mạng quần chúng ra đời, các vở dân ca được viết cho dàn nhạc truyền thống. Âm nhạc phương Tây không vì thế mà bị quên lãng. Các nghệ sĩ thử sức với những thể loại âm nhạc lớn như nhạc kịch, giao hưởng... Sự phát triển của âm nhạc đã thiết thực góp phần vào sự phát triển của các ngành nghệ thật khác: sân khấu, điện ảnh, vũ ba-lê...

Nghệ thuật múa cũng phát triển tốt đẹp với việc khôi phục lại giá trị của các vũ điệu dân tộc, đặt biệt của các dân tộc thiểu số. Sự đổi mới nghệ thuật múa cũng có những thành công quan trọng. Mọi hình thức sân khấu (chèo, tuồng, cải lương, kịch nói) đều có bước phát triển, vừa khai thác đề tài và kỹ thuật cổ, vừa hấp thu những đề tài và kỹ thuật hiện đại.

Mặc dầu có nhiều khó khăn về vật chất và kỹ thuật, điện ảnh thuộc những ngành phát triển nhanh nhất sau 1954, nhất là từ 1965. Phim thời sự, phim truyện ngắn và dài, phim tư liệu hoạt họa, mọi thể loại đều có những tác phẩm, trong đó một số đã đoạt giải ở các cuộc liên hoan quốc tế.

Phong trào văn học đã theo sát phong trào cách mạng, đảm nhận những nhiệm vụ cách mạng. Trong thời kỳ chiến tranh, phương châm ''tiếng hát át tiếng bom" để góp phần phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong quần chúng đông đảo. Văn học và nghệ thuật Việt Nam đã làm tròn sứ mạng được giao. Tuy nhiên rõ ràng là còn phải đợi nhiều năm hòa bình nữa mới có thể xuất hiện những tác phẩm lớn thật sự.