← Quay lại trang sách

Chương 17 Sự sụp đổ của chế độ thực dân mới (1973 - 1975) - Bộ máy thực dân mới

Sự can thiệp ồ ạt của lực lượng quân sự Mỹ từ năm 1965 đến năm 1973 chỉ là một cuộc hành quân khẩn cấp để chống đỡ một thảm họa sắp xảy ra đến nơi. Chính sách cơ bản của chủ nghĩa thực dân mới bao giờ cũng là thiết lập một bộ máy quân sự và cảnh sát bù nhìn có khả năng chúng các lực lượng yêu nước và cách mạng.

Bộ máy quân sự và cảnh sát đó, được dựng lên cẩn thận từ 1954, đã được tăng cường đáng kể từ 1969, để dự phòng trường hợp quân đội Mỹ rút đi. Dưới sự yểm trợ của nửa triệu quân Mỹ và mấy nghìn máy bay Mỹ, quân đội, cảnh sát và bộ máy hành chính của Sài Gòn, từ năm 1965 trở đi đã tăng gấp hơn hai lần quân số, trang bị cũng như sách lược của chúng được hoàn toàn đổi mới. Hàng chục tỉ đô-la đã được chi cho các khoản đó; những chuyên gia giỏi nhất của cảnh sát Mỹ, những cố vấn đã dày dạn thử thách qua các cuộc chiến tranh thuộc địa như Robert Thompson (người Anh); toàn bộ nền khoa học và công nghệ của Mỹ, bao gồm cả các khoa học xã hội, dân tộc học, xã hội học, tâm lý học... đều đã được huy động để dựng lên ở Nam Việt Nam một chế độ thực dân mới kiểu mẫu.

Mặt khác, trong những năm đó, Washington đã cố gắng làm suy yếu đến mức tối đa phong trào yêu nước và cách mạng Nam Việt Nam. Sau 1968, bộ chỉ huy Mỹ đã từ chối yêu cầu của Westmorelana xin tăng viện thêm 200.000 quân, không còn quan tâm đến việc chiếm lại các vùng đã được Mặt trận giải phóng Nam Việt Nam giải phóng. Những chiến dịch hành quân cổ điển ấy được tiến hành với cơ man nào là phương tiện vật chất và sư đoàn để chống lại một kẻ thù không thể nào nắm được vì họ được sự đồng tình của toàn dân. Đối với quân đội Mỹ, những cuộc hành quân như vậy là những thử thách khó chịu đựng nổi.

Nước Mỹ được vũ trang bằng nền kỹ thuật của mình có thể làm một kiểu chiến tranh khác. Chống lại cuộc kháng chiến của toàn dân, Mỹ có đủ những phương tiện thực hiện cuộc chiến tranh tổng lực, làm cho mọi sự sống không thể tồn tại được trong những khu vực rộng lớn bằng một cách đơn giản là tiêu diệt hết mọi sự sống ở những vùng do Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời kiểm soát. Trong nhiều năm, hàng ngàn máy bay, trực thăng, trọng pháo đã trút xuống các vùng tự do Nam Việt Nam nhiều triệu tấn bom đạn. Chúng xả súng vào bất cứ một cái gì động đậy, rải chất độc hóa học xuống chỗ nào thấy có cây lá có thể nuôi sống con người. Chúng san bằng các làng xóm và cả những nơi không còn dấu vết nhà ở nữa; chỉ cần nhìn thấy một cột khói nhỏ bay lên là lập tức máy bay kéo đến bắn xối xả...

Vì thế vùng đất do Mặt trận Dân tộc giải phóng kiểm soát trở nên trống trơn không còn một người dân, biến thành những hoang mạc thật sự, hàng triệu hố bom chi chít trở thành những vũng nước nhung nhúc muỗi. Không thế tìm thấy một mẩu gỗ, một viên gạch để dựng lại một túp lều, không một góc ruộng hoặc một mảnh vườn nào còn trồng trọt được. Hàng triệu người dân ở nông thôn Nam Việt Nam đã được “đô thị hóa” bằng cách đó. Cuộc chiến đấu sẽ chấm dứt vì không còn chiến sĩ, Mặt trận Dân tộc giải phóng không còn tìm đâu ra dự trữ cho các lực lượng cán bộ và quân đội của mình nữa. Bộ chỉ huy Mỹ bắn một mũi tên nhắm hai mục tiêu: số cư dân vốn sống trong các vùng tự do, chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nay chạy vào thành phố, dồn vào các trại tập trung, không còn cách nào để sinh sống, ngoài việc sung vào quân đội và cảnh sát của Thiệu. Cứ thế, quân đội và cảnh sát của Thiệu đã được tăng cường theo nhịp độ quân Mỹ rút đi đưa quân số của Sài Gòn lên hơn 1 triệu người và cảnh sát lên 150.000.

Washington đã không quên mở rộng sự phá hoại ra tận miền Bắc, hậu phương lớn của cách mạng Việt Nam. Những đợt ném bom 1965-1968, rồi những trận bom năm 1972 đã phá hoại hầu như toàn bộ các thiết bị công nghiệp, nhiều thành phố, hàng nghìn làng xã, tất cả các cầu, nhiều đập nước, hàng trăm trường học, bệnh viện. Những tháng cuối năm 1972, trong khi B52 ném bom ác liệt xuống các thành phố Bắc Việt Nam, Mỹ đã có một nỗ lực cuối cùng nhằm đưa ồ ạt các thiết bị chiến tranh vào Nam Việt Nam giúp Thiệu. Nhờ đó, Thiệu có trong tay lực lượng không quân gần 2000 máy bay, đứng hàng thứ 3 trên thế giới - hơn cả Pháp, Anh, Nhật và Tây Đức - và những vũ khí hiện đại nhất.

Ở những thành phố và vùng nông thôn do Mỹ kiểm soát, những nơi tìm bị đàn áp đẫm máu nhất, các chiến địch “bình định” rà đi xát lại đã tàn sát hàng chục nghìn người bị nghi là cán bộ hoặc người cảm tình của Mặt trận Dân tộc giải phóng, bắt bớ hàng trăm nghìn người khác. Bằng lửa và máu, Washington mưu toan áp đặt chế độ Thiệu cho nhân dân Nam Việt Nam.

Thế là đối đầu với Chính phủ Cách mạng lâm thời mà phía Mỹ cho là đã bị suy yếu đi rất nhiều vì những tàn phá ghê gớm và vì hàng triệu người dân đã buộc phải ra đi, lại không còn có thể trông cậy vào một sự viện trợ quan trọng của Bắc Việt Nam đã bị những trận bom dữ dội của Mỹ hủy hoại hoàn toàn và một chính quyền Sài Gòn vững mạnh hơn với lực lượng quân đội và cảnh sát hùng hậu, trang bị tận răng, đã được các cố vấn Mỹ tài giỏi huấn luyện từ nhiều năm. Đối với Washington, tình thế tỏ ra thuận lợi hơn năm 1954 sau ngày ký hiệp định Genève, khi chế độ Ngô Đình Diệm đang ở chập chững những bước ban đầu, chỉ mới có một quân đội và cảnh sát chưa mạnh lắm, khi Mỹ chưa hoàn toàn khống chế miền Nam Việt nam, khi bộ máy quan chức của chế độ Sài Gòn còn ít kinh nghiệm.

Từ năm 1954, hàng nghìn sĩ quan đã được Mỹ đào tạo và nhồi sọ, phần đông là những phần tử lưu manh, những kẻ mất gốc thèm khát đô la; chúng đã làm giàu và có quyền lực nhờ viện trợ Mỹ và nhờ chiến tranh. Lớp sĩ quan này đã dần dần nắm lấy các vị trí chính trị quan trọng - tổng thống nước cộng hòa, phó tổng thống, tỉnh trưởng, chúng giàu có lên ghê gớm bằng những cuộc cướp bóc trong các đợt hành quân, các vụ buôn lậu hàng hóa, vũ khí, ma túy; chúng đã cài bà con thân thích vào những vụ áp phe rất béo bở - xuất nhập khẩu, khách sạn, đĩ điếm, ma túy. Washington đã giao phó quyền lãnh đạo quốc gia và xã hội thực dân mới ở Sài Gòn cho đẳng cấp quân sự, quan liêu và buôn lậu này.

Còn bọn đâm thuê chém mướn được dùng để thực hiện những công việc hèn hạ như tra tấn, tàn sát, đốt nhà, ám sát. Các cơ quan của Mỹ đã tìm được chúng trong đám đông những con người mất gốc, bọn du côn ở các thành phố, các chuyên gia Mỹ đã dạy cho chúng biết những bí quyết tối tân nhất của cách hỏi cung, cách tra tấn thể xác và tâm lý. Ngoài ra, một bộ máy tuyên truyền đồ sộ nhằm đầu độc tư tưởng văn hóa, từ nhiều năm đã trút xuống dân chúng Nam Việt Nam những khẩu hiệu, những cuốn phim, tranh ảnh hòng xóa bỏ tất cả dấu ấn của tình cảm dân tộc, hoặc chỉ đơn thuần là tình nhân ái, trong tâm hồn mọi người, tạo điều kiện để biến họ thành những lính đánh thuê sẵn sàng thi hành mọi điều sai bảo.

Nhìn bề ngoài, bộ máy đó đã được lắp ráp tốt và có vẻ như đã được rà kĩ để chạy đều. Lính Mỹ rút đi, giờ chỉ cần cung cấp cho bộ máy quân sự và cảnh sát ấy vũ khí, đô la và cố vấn. Bộ máy này sẽ chịu trách nhiệm thi hành chính sách của Mỹ một cách ít tốn kém hơn các lực lượng của Mỹ. Richard Nixon, rồi Gerald Ford đã ra công xoay xở cho được mấy tỉ đô la mỗi năm chu cấp cho bộ máy chiến tranh ấy hoạt động. Vài ba tỷ đô la đối với ngân sách Mỹ, đối với quốc gia Mỹ thì có nghĩa lý gì? Dư luận Mỹ đã được thuyết phục để tin chắc rằng, sau khi quân đội Mỹ rút đi, Hoa Kỳ không còn bị sa vào vũng bùn Đông Dương nữa. Nhẹ nhàng chi ra vài tỷ đô la mà không làm kinh động dư luận và quốc hội Mỹ, việc đó không khó khăn lắm đối với các chuyên gia ở Nhà Trắng và Lầu Năm Góc.

Ngày 20-2-1974, các cơ quan của USAIDS đã báo cho Bella Abzug ở Hạ nghị viện Mỹ biết các số liệu về viện trợ Mỹ cho chính quyền Thiệu như sau:

Năm 1972: 2. 382. 000. 000 USD

Năm 1973: 2. 270. 500. 000 USD

Như vậy, năm 1973, dù đã kí Hiệp định Paris, viện trợ của Mỹ thực tế không hề giảm bớt so với năm 1972 là năm cao điểm của chiến tranh. Số vũ khí được cung cấp rõ ràng vượt cả về lượng và về chất so với những trang bị hết hạn sử dụng cần được thay thế. Chính theo cách đó, Mỹ đã gửi các máy bay F5E tối hiện đại cho Thiệu, nói là để thay thế các máy bay F5A đã hết hạn sử dụng.

Để tăng cường các đợt gửi vũ khí như vậy, Lầu Năm Góc đã bày ra lắm mẹo: công bố giá vũ khí gửi cho Thiệu thấp hơn giá thực tế ghi ở những mục khác của ngân sách. Thậm chí đã một lần người ta phát hiện ra một “sai lầm kế toán”, nhờ đó tìm ra một số tiền mấy chục triệu đô la không dùng đến đã được các cơ quan Mỹ rót cho Sài Gòn. Việc trả lương cho binh lính, sĩ quan và cảnh sát của Thiệu được đảm bảo bằng viện trợ kinh tế của Mỹ. Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, Graham Martin, chạy vạy vất vả để đảm bảo cho Thiệu trong hai năm 1974-1975 trung bình mỗi năm 700 triệu đô la, tức là bằng số tiền mà chính quyền Sài Gòn đã được nhận khi nửa triệu lính Mỹ còn đóng trên đất Việt Nam và cuộc chiến tranh đang ở cao điểm. Trong khi các vũ khí và trang bị đã được Mỹ cấp không, chi phí quân sự của Thiệu vẫn ngốn đến 60% tổng ngân sách của Sài Gòn.

Trước Ủy ban nghiên cứu các vấn đề Châu Á và Thái Bình Dương do Hạ nghị viện Mỹ triệu tập, Fred Branhnan đã nói rõ: thực ra chỉ 4% viện trợ cho Đông Dương do tổng thống Nixon đề nghị cho năm tài chính 1974 (124,4 triệu/ 2900 triệu) được dùng vào việc tái thiết và phát triển; khoảng 4% khác, tức 107,4 triệu, được dùng cho những mục đích nhân đạo, còn 92% viện trợ do Chính phủ yêu cầu cho năm 1974 đều được dùng vào việc tiếp tục cuộc chiến tranh, trong đó 72% là viện trợ quân sự thực sự còn các số tiền cấp với danh nghĩa “viện trợ kinh tế” và “lương thực hòa bình” thì cũng được sử dụng gián tiếp vào các mục đích chiến tranh.

Những vụ đánh tráo các khoản ''lương thực vì hoà bình'' dành cho các nước khác, những khoản vay vượt quá 100 triệu đô đa, một khoản viện trợ gọi là đa phương qua trung gian các tổ chức quốc tế, đều được dùng để cứu trợ càng nhiều càng tốt cho ngân sách của Sài Gòn. Tổ chức USAID ở Sài Gòn xác nhận rằng 83,6% ngân sách này đều là do viện trợ của Mỹ cung cấp.

Tố chức USAID, cơ quan quản lý số viện trợ này, vẫn giữ nguyên số nhân viên của họ ở Sài Gòn có đến hàng mấy trăm nhân viên, còn quân nhân và kĩ thuật viên Mỹ đội lốt dân sự thì lo việc sửa chữa và vận hành máy móc (đặc biệt là máy bay) trong quân đội Thiệu, ghi sổ các nhu cầu của quân đội Sài Gòn trong quá trình diễn ra các cuộc hành quân. Nhân viên ngoại giao trong Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn được tăng thêm mấy trăm người, phân vào 4 tổng lãnh sự quán rải khắp cả miền Nam. Viên đại sứ Mỹ có 145 phụ tá để theo dõi các cuộc hành quân còn tổ chức của tùy viên quân sự Đại sứ quán (DAO) có đến ít nhất 50 sĩ quan. Toàn bộ nhân sự “ngoại giao” đó thực chất là cả một bộ tham mưu được ngụy trang, lãnh đạo và chỉ huy các lực lượng vũ trang của Sài Gòn, lập các kế hoạch hành quân quyết định chiến lược, các sĩ quan của Thiệu chỉ còn việc thi hành các kế hoạch và chỉ thị đã được các cố vấn Mỹ hiệu chỉnh. Chẳng có gì thay đổi vế bản chất của cuộc chiến tranh cũng như về sự chỉ đạo chiến tranh. Trước cũng như sau Hiệp định Paris, cuộc chiến tranh gọi là ''Việt Nam hóa'' vẫn là một cuộc chiến tranh của Mỹ.