Hướng tới một con đường mới?
Tháng 9 năm 1985, một biện pháp tài chính mới càng làm trầm trọng thêm rất nhiều tình trạng khủng hoảng: người ta đã quyết định phát hành một đồng tiền mới, giá trị gấp 10 lần đồng tiền cũ. Kết quả đã ngược lại với dự kiến: lạm phát được dấn ga tăng vọt. Báo cáo của Quốc hội họp tháng 12/1985 nhận xét rằng: mục tiêu ổn định kinh tế và xã hội cũng như các chỉ tiêu của kế hoạch 1981-1985, do Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đã không đạt được. Cũng trong kỳ họp này, nhiều thành viên có vị thế cao trong Chính phủ bị cách chức; đây là lần đầu tiên một biện pháp thuộc loại này được áp dụng, chứng tỏ mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội cũng như của làn sóng dư luận không ngừng lan tỏa trong nhiều tầng lớp xã hội.
Lần này, dư luận thực sự lôi cuốn nhiều tầng lớp, đặc biệt trong các phạm trù xã hội có ý nghĩa chính trị nhất, ngay cả các chiến sĩ của Đảng và nhiều trí thức cũng tham gia tranh luận sôi nổi các văn đề kinh tế, xã hội và tư tưởng nóng hổi. Những tin tức dồn dập đến từ Liên Xô về "cải tổ'' (perestroika), về sự “minh bạch và công khai” (glasnost), những luận điếm của Đại hội XXVII ĐẢNG Cộng sản Liên Xô, những đổi thay trong ban lãnh đạo của đảng này đã có tiếng vang sâu sắc ở Việt Nam, có tác dụng như một chất xúc tác thực sự. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, trong một bản tuyên bố chính thức, khẳng định hoàn toàn ủng hộ chính sách đối nội và đối ngoại do Đại hội XXVII của Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua, coi đó là một “bước ngoặt lịch sử trong sự tiến triển của xã hội Xô viết”.
Việc chuẩn bị Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt cả năm 1986 được tiến hành trong một không khí hoàn toàn khác với không khí chuẩn bị những Đại hội trước. Tại các đơn vị cơ sở của Đảng, trong nội bộ các tổ chức quần chúng, các công đoàn, xí nghiệp, các tổ chức hành chính, các ủy ban của Mặt trận Tổ quốc, nhiều vấn đề được đưa ra thảo luận một cách sâu sắc. Những ý kiến đóng góp từ cơ sở đã buộc ban lãnh đạo phải điều chỉnh một cách đáng kể bản dự thảo ''Báo cáo chính trị'' do Bộ Chính trị chuẩn bị. Chưa bao giờ sinh hoạt chính trị lại sôi động đến thế, bởi các cuộc tranh luận, các cuộc bầu cử đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc đều đã diễn ra trên nền của một đợt sóng ngầm rộng lớn.
Ngày 10 tháng 7 năm 1986, sau khi Tổng Bí thư Lê Duẩn từ trần, ông Trường Chinh được bầu lên thay; lập tức ông công bố chính sách mới của Đảng với hai từ then chốt là: ''Đổi mới''. Khẩu hiệu này gây nên một niềm phấn khởi lớn trong hàng ngũ Đảng cũng như nhân dân, tiếp một luồng sinh khí mạnh chưa từng thấy cho báo chí; lần đầu tiên báo chí đề cập một cách rõ ràng và dứt khoát những sai lầm và thiếu sót của chế độ những tệ nạn xã hội, công khai tố giác chủ nghĩa quan liêu, bảo thủ và sự tha hóa. Ngày 15 tháng 12 năm 1986, Đại hội VI của Đảng khai mạc, dấy lên nhiều hy vọng lớn lao. Trong "Báo cáo chính trị" có đoạn xác định rằng: '' Đại hội phải đánh dấu một mốc quan trọng để đổi mới hệ thống tư duy, tác phong làm việc, những phương thức tổ chức của chúng ta cho phù hợp với những cơ sơ của chủ nghĩa Mác-Lênin, những yêu cầu của thời đại chúng ta, như đã được thể hiện trong những tư tưởng lớn được nêu lên tại Đại hội XXVII của Đảng Cộng sản Liên Xô... Đảng chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, nói tất cả sự thật ".
Bản Báo cáo chú ý đặc biệt đến những sai lầm đã mắc phải chứ không nhấn mạnh các hoàn cảnh khách quan, ''những sai lầm trầm trọng và kéo dài liên quan đến những chính sách cụ thể quan trọng nhất, những sai lầm về chiến lược, và trong việc thực hiện những cương lĩnh đã đề ra''.
Những sai lầm do bệnh chủ quan, duy ý chí chính là xuất phát từ những sai lầm về tư tưởng, về chính sách tổ chức và đề bạt cán bộ.
Đặc biệt Báo cáo nói rõ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ lâu đài, phải kinh qua nhiều giai đoạn, đẩy dẫy những khó khăn, khẳng định sự cần thiết phải duy trì lâu dài một khu vực kinh tế tư nhân, cá nhân và tư bản chủ nghĩa, được hưởng những quyền lợi hợp pháp như khu vực quốc doanh. Việc quản lý tất cả các khu vực kinh tế kể cả khu vực quốc doanh, không phải dựa trên những tiêu chuẩn thuần túy chính trị nữa, mà phải dựa trên những tiêu chuẩn về khả năng sinh lãi; việc động viên chính trị, tư tưởng phải nhường chỗ cho những kích thích vật chất. Giáo điều về ưu tiên cho công nghiệp nặng, nếu không phải là bị từ bỏ, thì ít ra cũng được giảm nhẹ; thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, ngành sản xuất hàng tiêu dùng được dành một vị trí quan trọng. Có thể nói một chính sách kinh tế thực sự mới đã được công bố, cho phép thực hiện nhiều cải cách trong những năm sau đó, làm thay đổi đáng kể những cấu trúc cũ, mở ra một con đường chưa hề được khai phá: ''nền kinh tế thị trường.''
Để thực hiện chính sách kinh tế mới đó, những năm 1987 và 1988, hai biện pháp quan trọng bậc nhất đã được đề ra:
- Luật cho phép rất rộng rãi các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
- Nghị quyết mang tên là "Khoán 10'' của Bộ chính trị về việc giao đất cho các hộ nông dân trong 15 năm, hoàn chỉnh Nghị quyết về ''khoán 100'' năm 1981, theo hướng dành quyền tự do gần như hoàn toàn về khai thác đất đai và mua bán nông sản việc cấp đất hoang, cho đến lúc bấy giờ theo luật pháp vẫn thuộc quyền Nhà nước, cũng cho phép khai hoang phục hóa nhanh chóng nhiều diện tích lớn.
Những biện pháp trên đây đã kích thích mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp lúc bấy giờ đã sa sút nghiêm trọng. Nhiều biện pháp khác chống lạm phát trong lĩnh vực tài chính đã hạ thấp dần tỷ lệ lạm phát. Luồng vốn nước ngoài như một động lực thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của công nghiệp nhẹ và các dịch vụ trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu. Tháng 12 năm 1989, Chính phủ đã có thể trình bày trước Quốc hội một bản tổng kết kinh tế tích cực được đánh dấu đặc biệt bởi khả năng hàng năm có thể xuất khẩu hơn 1 triệu tấn gạo, sản xuất lương thực đã tăng vượt quá đỉnh 20 triệu tấn. Sự cải thiện rất đáng kể đó của sản xuất nông nghiệp là tiền đề cơ bản cho phát triển kinh tế. Các thành phố, đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, từ nay gắn với thị trường thế giới, mang một bộ mặt mới với nhiều công trình xây dựng mới: những biệt thự của tư nhân, khách sạn du lịch, trụ sở công ty và ngân hàng nước ngoài, những công sở, cùng với làn sóng ngày càng tăng của khách du lịch nước ngoài, những Việt kiều đã di cư trở về thăm gia đình, cùng với nguồn hàng hóa phong phú đủ loại, từ đủ mọi nguồn, trong nước và nước ngoài. Cuối năm 1988, có thể nói rằng trên bình diện kinh tế, đất nước đã tiến vào con đường mới không thể đảo ngược, mà Đại hội VI đã mở ra.
Việc rút quân khỏi Campuchia cuối 1989, chính sách kinh tế mở cửa chấm dứt tình trạng cô lập với quốc tế, ghi thêm một điểm lạc quan vào bản tổng kết này.
Liệu người ta có thể bằng lòng với một sự đổi mới các cấu trúc kinh tế mà chẳng đụng chạm gì đến các lĩnh vực khác - chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng, không? Về lý thuyết, Đại hội VI đề xướng một sự đổi mới hoàn toàn, đổi mới kinh tế phải tiến hành cùng với việc tổ chức lại toàn bộ những cấu trúc và chính sách cơ bản trong các khu vực khác. Khái niệm pháp chế được đề cao, và ở mỗi kỳ họp của Quốc hội, nhiều dư luận được đưa ra thảo luận rồi được thông qua, mỗi khu vực của nền hành chính dân sự, tư pháp, quản lý kinh tế, đều cố gắng xác định rõ ràng những phương thức thi hành các đạo luật mới.
Theo đường lối của Đại hội VI, tháng 10 năm 1987, Tổng Bí thư mới Nguyễn Văn Linh đã tìm cách xác định một chính sách mới về văn hóa. Khoảng 100 nhà văn, nghệ sĩ được triệu tập vì mục đích này đã nhất trí yêu cầu tự do hóa các cơ cấu và những cách làm vẫn còn hiện hành cho đến lúc đó, và họ đã được người lãnh đạo cao nhất của Đảng đồng tình. Nhiều văn nghệ sĩ bị lên án trước đây đã được khôi phục danh dự. Một thế hệ mới nhà văn, nhà điện ảnh bắt tay viết những truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, thực hiện nhiều bộ phim thấm đượm một tinh thần mới, mà không phải quá bận tâm với những tiêu chuẩn bó buộc trước đó theo phương pháp "chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa''. Những khái niệm cơ bản trong các khoa học nhân văn - sử học, xã hội học, triết học - đều được xem xét lại, những điều khẳng định mang tính giáo điều, cũng như những lời kết án không được quyền tranh cãi không còn được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận nữa.
Tuy nhiên, sự việc vẫn kém sáng rõ hơn nhiều so với lĩnh vực kinh tế, nơi mà những kết luận từ hiệu quả thực tế như lãi, lỗ, sự cạnh tranh trên thị trường quốc gia và quốc tế, lạm phát, thất nghiệp... là hiển nhiên hơn. Làm sao xác định được tính chất độc hại hoặc những tác dụng lành mạnh về lâu dài của một bài thơ, một cuốn phim, một bài hát, một bức tranh? Trong chừng mực nào có thể giao cho một tổ chức, một cá nhân quyền quyết định về số phận của một tác phẩm và thường là về tương lai của một nhà văn hay một nghệ sĩ? Đây là những vấn đề của mọi thời đại, không riêng gì ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này, trừ việc sử dụng những công nghệ mới về truyền thông đại chúng, làm cho những vấn đề đó càng trở nên hết sức gay gắt.
Ngay từ 1989, tinh thần hăng hái do đường lối của Góc- ba-chốp tạo nên đã nguội dần, trong khi ý chí đổi mới kinh tế và sự đòi hỏi dân chủ trong nhiều giới vẫn không thay đổi thì những phân vân, rồi tiếp đó là những khuynh hướng thực sự muốn quay ngoắt trở lại, đã xuất hiện.
Khẩu hiệu được tung ra: ưu tiên là ổn định về chính trị! Không để xẩy ra những đảo lộn khinh suất! Nhiều trận bút chiến sôi nổi về một số cuốn tiểu thuyết, cuốn phim, bị một bộ phận dư luận kết tội là theo chủ nghĩa hư vô phá hoại mọi giá trị dân tộc nhưng lại được một số người khác ca ngợi lên tận mây xanh. Sự kiện các chế độ xã hội chủ nghĩa châu Âu lần lượt sụp đổ Liên bang Xô viết tan rã là cú sốc mạnh kìm hãm trào lưu tư tưởng. Tấn thảm kịch Thiên An Môn ở Bắc Kinh gây xúc động đau đớn. Ban lãnh đạo của Đảng khẳng định lại mãnh mẽ sự trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, ý chí không lay chuyển của mình quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo “con đường” do Hồ Chí Minh mở ra, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa đa nguyên, đồng thời vẫn đề cao kinh tế thị trường nhưng khẳng định là phải do Nhà nước kiểm soát.
Tất cả những luận điểm kinh tế, chính trị, tư tưởng ấy đều được khẳng định lại ở Đại hội Đảng VII họp năm 1991 trong bối cảnh quốc gia và quốc tế hết sức phức tạp. Trên bình diện đối nội, tuy tình hình kinh tế chung đã được cải thiện, nhưng vẫn còn dai dẳng những mất cân đối và những khuyết tật nghiêm trọng, trong đó một số còn trở nên nghiêm trọng hơn. Sự tha hóa của cán bộ, số vụ gian trá, buôn lậu, trốn thuế, bê bối về tài chính tăng thêm nhiều, hàng ngoại tràn ngập, tội phạm hình sự và hiểm họa ma túy trầm trọng hơn; tình hình đó đã làm cho bức tranh tối sầm lại. Năm 1992, Quốc hội bầu ra Chính phủ mới và đồng thanh kiến nghị Chính phủ tiến hành một cuộc đấu tranh kiên quyết chống nạn tham nhũng. Trên bình diện quốc tế, trong khi quan hệ với các nước trong khối ASEAN, Tây Âu, Ấn Độ có bước phát triển mới được đánh đấu bằng những khoản đầu tư trong nhiều lĩnh vực (đặc biệt là dầu hỏa) thì phía Hoa Kỳ vẫn khăng khăng duy trì cấm vận, và tình hình ở Campuchia, mặc dầu có sự can thiệp trực tiếp của Liên hợp quốc, vẫn bấp bênh. Với Bắc Kinh, các tuyên bố chính thức của cả hai bên đều khẳng định nguyện vọng bình thường hóa các quan hệ. Ban lãnh đạo mới lên cầm quyền, các đồng chí Đỗ Mười làm Tổng BI thư, Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng, kể từ 1993, có thể hoạt động trên cơ sở nền kinh tế phục hồi không thể phủ nhận, nhưng đồng thời phải giải quyết nhiều vấn đề gay gắt và phức tạp.