← Quay lại trang sách

Khủng hoảng

Năm 1987 mở đầu trong một bối cảnh sôi động như đang lên cơn sốt, gây nên những rối ren lớn trong cả nước, đặc biệt ở thành phố Sài Gòn, là nơi có khoảng 300.000 hộ nhà buôn, nhà công nghiệp lớn nhỏ - tất cả đều bị coi là "tư bản'', một cách gọi ngoài sự định tính về phương diện kinh tế còn mang nội hàm phi đạo đức, khiến cho chiến dịch ''cải tạo các quan hệ sản xuất cũ'' ẩn chứa một một sắc thái ác cảm làm nhiều tầng lớp nhân dân thêm nặng mối lo âu. Vấn đề còn phức tạp thêm vì đại đa số các ''nhà tư bản" Sài Gòn lại là người Hoa (người Việt gốc Trung Quốc) quần cư ở thành phố Chợ Lớn, lập thành một cộng đồng chặt chẽ, một nhà nước thực sự ở bên trong Nhà nước, nắm giữ những guồng máy chủ yếu của nền kinh tế Nam Việt Nam.

Một chiến dịch chống Việt Nam dữ dội chẳng mấy chốc được tung ra ở Trung Quốc cũng như trong các cộng đồng người Hoa ở tản mát khắp cả nước Việt Nam, thời kỳ ấy tổng số lên đến 1,5 triệu người, trong đó 700.000 người ở Chợ Lớn, 200.000 ở Quảng Ninh. Bắc Kinh bắt đầu tập trung quân đội ở biên giới Việt - Trung, đuổi về nước các sinh viên và thực tập sinh Việt Nam đang học ở Trung Quốc, cắt viện trợ kinh tế. Được trang bị vũ khí của Trung Quốc, được cố vấn quân sự Trung Quốc huấn luyện, các vực lượng Pôn Pốt tăng cường tấn công dọc biên giới Việt Nam - Campuchia. Sự lo âu tăng lên trong các cộng đồng người Hoa, họ hốt hoảng vì những lời đồn đại dai dẳng rằng chiến tranh sẽ nổ ra giữa hai nước và người Hoa sẽ bị tàn sát. Những người Hoa sống gần biên giới bỏ trốn hàng loạt sang Trung Quốc; những người Hoa ở Chợ Lớn và nhiều thành phố khác ở Nam Việt Nam thì gấp gáp và bí mật tìm cách đến các nước Đông Nam Á, nhất là Băng Cốc (Thái Lan), nơi có những cộng đồng lớn người Hoa có thể giúp họ lánh nạn và bảo vệ họ. Những trận bão liên tiếp suốt mùa hè 1978, làm thiệt hại đến 3 triệu tấn gạo, 6 triệu người bị thiếu đói càng làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế vốn đã điêu đứng vì những biện pháp không hợp thời do chính sách sai lầm và vì tình trạng mất ổn định do sự ra đi ồ ạt của người Hoa. Các vùng nông thôn Nam Việt Nam lại bị khuấy động sâu sắc vì chiến dịch hợp tác hóa nông nghiệp, đang được đẩy mạnh. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, tụt xuống đáng kể, nạn chợ đen hoành hành dễ dàng và nhanh chóng tỏa rộng bóng đen của nó nhờ tình trạng có một thị trường kép - thị tường tự do song song với thị trường theo giá cả do Nhà nước quy định. Lạm phát tăng lên theo cấp số nhân, một mặt gây ra cảnh bần cùng hóa nhanh chóng của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là công chức và công nhân các xí nghiệp quốc doanh, mặt khác tạo điều kiện làm giàu nhanh chóng cho một thiểu số gồm những bọn buôn gian bán lận và những cán bộ tha hóa. Sự bất bình của quần chúng ngày càng tăng lên.

Tình hình càng thêm khủng hoảng vì Việt Nam, về mặt quân sự bị kẹt trong một gọng kìm thực sự: tháng 12 năm 1978, trong khi các lực lượng Pôn Pốt tấn công dữ dội vào thị xã Tây Ninh sát biên giới, nhiều đơn vị lớn của quân đội Trung Quốc tập trung ở biên giới phía Bắc.

Đối mặt với thái độ gây chiến của Trung Quốc và Pôn Pốt, thái độ thù nghịch của Mỹ và các cường quốc phương Tây, nước Việt Nam thắt chặt liên minh với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu. Trong nhiều năm, Việt Nam đã tìm cách đóng vai trò hòa giải giữa hai "người anh lớn'' Liên Xô và Trung Quốc, nhưng vô hiệu. Lần này, việc bảo vệ nền độc lập dân tộc đang lâm nguy. Tháng 6 năm 1978, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của khối SEV (COMECON); tháng 11, một Hiệp ước liên minh dài hạn với Liên Xô được ký kết, trong đó có điều khoản về quân sự.

Có thể đứng vững chắc nhờ sự ủng hộ chính trị và kinh tế ấy và nếu cần cả về quân sự, Bộ chỉ huy quân sự Việt Nam có thể vận dụng một chiến lược thích hợp, tiến công ở biên giới Tây Nam chống quân Pôn Pốt, phòng ngự ở biên giới phía Bắc chống lại quân đội Trung Quốc. Mục tiêu được chọn trước tiên là xóa sổ ung nhọt Pôn Pốt: phối hợp với các lực lượng nhân dân Campuchia nổi dậy đã tập hợp lại trong Mặt trận đoàn kết cứu nước chống chế độ đẫm máu của Pôn Pốt, quân đội Việt Nam mở cuộc tiến công lớn với kết quả là giải phóng thủ đô Phnôm Pênh ngày 7-1-1979, và đánh đuổi đội quân Pôn Pốt, buộc chúng phải chạy trốn về hướng Thái Lan. Một Chính phủ mới được lập lên ở Phnôm Pênh với sự ủng hộ của các lực lượng vũ trang Việt Nam.

Bắc Kinh phản ứng dữ dội. Tháng 2-1979, 600.000 quân Trung Quốc tấn công sang các tỉnh biên giới Việt Nam trên một trận tuyến dài 1.500 km, chiếm đóng và cướp phá các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai cũng như nhiều làng bản. Cần lưu ý rằng Lạng Sơn chỉ cách Hà Nội 160 km. Chính phủ Việt Nam ra lệnh tổng động viên áp dụng những chiến thuật đã lỗi thời với những trang bị cũ kỹ, các lực lượng Trung Quốc mặc dù hơn hẳn về số lượng, đã phải nếm mùi thất bại nặng nề trước các chiến sĩ Việt Nam dạn dày chinh chiến và được chỉ huy tốt. Bị tổn thất lớn về quân sự, lại bị dư luận quốc tế hầu như đồng thanh lên án, Bắc Kinh buộc phải ngừng các hoạt động quân sự vào cuối tháng 3 năm 1979, tuy vẫn lên tiếng đe dọa sẽ dạy cho Việt Nam "một bài học mới'' khi cần thiết.

Những thắng lợi về quân sự chẳng hề ngăn chặn được những khó khăn về kinh tế và xã hội nghiêm trọng thêm mà hoàn toàn ngược lại. Việt Nam phải viện trợ về mọi mặt cho Campuchia đã bị tàn phá và tan rã hoàn toàn vì 4 năm chế độ Pôn Pốt: cung cấp lương thực, thuốc men, sửa chữa các đường giao thông, chăm sóc y tế, hồi cư và tái định cư số người chạy loạn. Phải khôi phục các vùng đã bị thiệt hại nặng nề do quân chiếm đóng Trung Quốc gây ra. Tháng 8-1979, Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận thất bại về tình hình kinh tế và đưa ra một loạt biện pháp nhằm bảo đảm lợi ích của các cơ sở kinh doanh theo hộ gia đình và cá nhân, của những người lao động. Người ta phê phán nghiêm khắc các khía cạnh ''tiêu cực'' - một cách nói khéo để chỉ sự tha hóa đang lan nhanh. Năm 1980, Quốc hội thông qua một Hiến pháp mới dựa trên bộ ba: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Tuy nhiên, chưa soạn thảo được một hệ thống luật lệ để cụ thể hóa trong thực tiễn những nguyên lý trên đây, nhằm xây dựng thực sự một nền pháp chế mới. Những khái niệm về quyền công dân, về dân chủ, về pháp chế, vẫn còn là những khái niệm trừu tượng, mà thường cả những cán bộ lãnh đạo thuộc các cấp cũng như nhân dân đều không hiểu.

Cuối kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, thất bại kinh tế đã rõ ràng; sản xuất lương thực chỉ đạt 14,4 triệu tấn so với dự kiến 21 triệu. Nhà nước phải nhập khẩu một khối lượng lớn. Sự khan hiếm lương thực đã phá hoại ngay những cơ sở của phát triển kinh tế. Hai con số đặc biệt có ý nghĩa:

- Sản xuất lương thực 1976 - 1980 tăng 6,45%;

- Dân số tăng 9,27%

Bảng tổng kết của ngành công nghiệp cũng không sáng sủa gì hơn:

- Tăng trưởng 0,1 %;

- 5,3 triệu tấn than (dự kiến 10 triệu);

- 175 triệu mét vải (dự kiên 450 triệu);

- Điện lực: 3,68 tỷ KW/giờ (dự kiến 5 tỷ).

Những hậu quả khủng khiếp của chiến tranh, dù là có thực vẫn không đủ để giải thích tất cả. Một số người nói đến “khủng hoảng”, nhưng trong các văn bản chính thức vẫn thận trọng tránh né thuật ngữ này. Người ta chỉ mới chịu nêu lên những sai lầm trong vận dụng đường lối chung, trong quản lý hành chính, những lỗ hổng, những bất cập của nhiều chính sách cụ thể. Nhiều biện pháp điều chỉnh đã được thực hiện nhưng không ngăn chặn được sự bần cùng hóa của đại bộ phận nông dân, công nhân, viên chức, nhất là do tình hình quốc tế căng thẳng, những gánh nặng về chi phí quân sự không thể giảm nhẹ được một cách đáng kể. Phải ôm gánh nặng Campuchia, lại phải đối mặt với sự thù địch của Trung Quốc và của những nước tư bản lớn, Việt Nam buộc phải dành những nguồn lực quan trọng cho quốc phòng (không nên quên rằng Việt Nam có 3.200 km bờ biển và 7.000 km đường biên giới trên bộ).

Trong tình hình đặc biệt khó khăn đó, sự thiếu kinh nghiệm về quản lý kinh tế đã có những hậu quả tai hại, những giải pháp về giá-lương-tiền đã dẫn đến những kết quả thường là trái với dự kiến... Việc định lại giá cả năm 1981 đã làm bùng lên một cơn lạm phát không thể nào ngăn cản được. Sau đó nhiều cuộc tranh cãi kịch liệt đã diễn ra trong suốt thời kỳ chuẩn bị Đại hội V của Đảng tháng 3 năm 1982. So với Đại hội trước, Đại hội V đã có một cách nhìn hiện thực hơn về tình hình, thấy rõ những khó khăn khách quan, những sai lầm nghiêm trọng, những tham vọng quá lớn và chủ nghĩa quan liêu.

Tuy nhiên, Đại hội V cũng không xác định được một đường lối đổi mới thật sự. Mục tiêu, ngay cả ngắn hạn, vẫn là đẩy mạnh hợp tác hóa hầu như toàn bộ các hộ nông dân và nắm lấy các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp để phân phối theo kế hoạch trên quy mô cả nước, và cho tất cả các tầng lớp xã hội. Người ta đề ra mục tiêu cho phong trào hợp tác hóa nông nghiệp là phải bao gồm 85% số hộ nông dân ở miền Nam vào các hình thức sản xuất tập thể.

Tuy chưa thực sự đụng đến các cấu trúc xã hội-kinh tế cơ sở nhưng một vài biện pháp hoặc chính sách đã đưa lại phần nào kết quả:

- Chú ý đến các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng, nhất là ngành thủ công nghiệp, cho đến bấy giờ vẫn bị xem nhẹ để tập trung vào công nghiệp nặng, nên đã cải thiện được việc sản xuất một số vật phẩm tiêu dùng hàng ngày.

- Nghị quyết được gọi là "khoán 100" của Bộ Chính trị chủ trương giao tạm thời ruộng đất cho các hộ nông dân, cho phép họ phần nào được tự do quyết định cây trồng và bán các nông sản đã tạo nên chút ít tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp.

Những cải tiến đó dù sao vẫn không quan trọng và cũng không lâu dài. Nhiều biện pháp khác không đúng lại được đề ra, ví như cho phép các xí nghiệp quốc doanh, bên cạnh việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, được làm ''kế hoạch ba'' gắn với thị trường tự do.

Tình hình chung vẫn bấp bênh: cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề, xuất khẩu chỉ bằng 1/3 nhập khẩu (trung bình xuất khẩu 500 triệu rúp/1,5 tỷ rúp nhập khẩu). Tình trạng khập khểnh trầm trọng nhất là ở lĩnh vực tài chính, giá cả, tiền lương và tiền tệ. Chỉ số giá bán lẻ năm 1980 là 1 thì năm 1985 là 17,3. Có những giá khác nhau cho cùng một sản phẩm tùy từng khu vực điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị trường chợ đen, nạn tham nhũng và buôn lậu. Tiền lương và các phụ cấp chỉ mới trang trải được gần 1/3 chi phí tối thiểu của những gia đình công nhân. Nên chăng trả lương cho công nhân viên chức duy nhất bằng tiền mặt hay là phải cung cấp hàng hóa cho họ theo một hệ thống tem phiếu phức tạp? Tiền Nhà nước chi ra đã vượt quá xa thu nhập. Lạm phát tăng tốc, giá trị của đơn vị tiền tệ năm 1985 chỉ còn là 0,075 so với năm 1981. Các xí nghiệp quốc doanh, xí nghiệp thương nghiệp, công nghiệp càng sản xuất càng lỗ. Tình trạng công nhân nghỉ việc, bỏ việc làm tê liệt các xí nghiệp. Nông dân hờ hững bỏ mặc công việc của hợp tác xã nông nghiệp, trí thức không thể thực hiện được chức năng của họ, trong khi một tầng lớp nhà giàu mới, những “tư sản mới'' đang hình thành nhanh chóng. Khởi đầu trong lĩnh vực kinh tế, cuộc khủng hoảng nay đã mang tính chất xã hội, phá hoại những giá trị cơ bản của xã hội, từng bước tạo ra tình trạng ''loạn cương'' (anomie)... Chỉ trong vài ba năm, 1,5 triệu người đã di cư ra nước ngoài, tạo nên thực thể những người Việt sống ở nước ngoài, một “diaspora”, nhân tố thực sự mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam.