CHƯƠNG THỨ NHẤT Những người sống đầu tiên trên đất Việt-Nam NHỮNG NGƯỜI SỐNG ĐẦU TIÊN-TRÊN ĐẤT VIỆT NAM (1)-
Sơn hà Việt Nam không phải đã do người Việt Nam chiếm cứ từ ngàn xưa.
Không nói đến những vùng đất của Chiêm thành, Chân lạp, mà cha ông chúng ta mới giành giật được để sinh sống cách đây mấy trăm năm, mà đến cả vùng Bắc Việt, và phía bắc Trung Việt, là những chỗ người Việt Nam đã chọn làm quê hương lâu hơn hết, lúc đầu cũng là tổ ấm của những giống người không có thân thuộc gì với chúng ta.
Người Việt Nam đứng vào một loạt với người Trung hoa, mà người Trung hoa đã đến đất cổ Việt tương đối mới, nghĩa là lối cuối thế kỷ thứ hai trước Kỷ nguyên. Còn những người sống đầu tiên tại đây, theo như những khám phá tiền sử cho biết, đã xuất hiện hàng chục nghìn năm, và có thể hằng mấy trăm nghìn năm. Họ thuộc về giống người Anh-đô-nê của thời Tân thạch, giống Mê-la-nê của thời Trung thạch, hay còn có thể thuộc các giống sơ khai và sơ thủy của thời hừng đông nhân loại. Các chủ nhân ông xa xưa đó của đất nước chúng ta đã để lại một chương thú vị cho nền tiền sử Việt Nam. Chương này có thể biết được và viết được, phần lớn cũng là nhờ công trình những nhà bác học của Trường Viễn-Đông Bác-cổ và Nha Địa-chất học Đông-dương.
I. Môn tiền sử ở Việt Nam (2)
Tiền sử học ở Việt Nam đã bắt đầu trong thời Pháp thuộc.
Lợi dụng tất cả mọi khía cạnh hoạt động để cũng cố việc thống trị cũng như để phổ biến nền văn hóa riêng, người Pháp đã lưu ý đến nền Tiền sử tại Đông-dương ngay từ cuối thế kỷ 19. Trước hết hãy nói đến cổ học.
Người Pháp đã cố gắng lập ở Chandernagor, Ấn Độ, một viện Bác-cổ tương tự như những viện Bác-cổ Pháp ở La mã, ở Nhã điền, hay ở Cairo, nhưng bị thất bại. Bấy giờ các ông Auguste Barth, Michel Bréal, Émile Sénart và Sylvain Lévy, xin Toàn quyền Đông-dương Paul Doumer cho phép lập một Ủy ban nghiên cứu Cổ học tại trong lĩnh thổ ông cai trị. Họ được như ý, và Ủy ban bắt đầu hoạt động kể từ 1888. Chính Ủy ban nầy không lâu sau đã mang tên là Trường Viễn-đông Bác-cổ: École française d'Extrême-Orient. (3)
Trong những năm đầu, Trường trực thuộc phe Toàn quyền về phương diện tài chánh, mãi đến năm 1920 mới được tự trị. Về phương diện chuyên môn, Trường được đặt dưới quyền kiểm soát của Viện Hàn-lâm Bác-cổ Paris. Mục đích của Trường là khám phá những nền văn minh cùng di tích cổ ở Đông-dương nhờ những công trình nghiên cứu cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học. Trường cũng nhận phận sự bảo tồn các di tích lịch sử của Việt Nam, Chàm, Khmer. Cơ quan ngôn luận của Trường là Tập san Viễn-đông Bác-cổ (Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient), ra đời từ năm 1901, ghi lại tất cả thành tích của Trường. Tập san vẫn xuất bản hằng năm và Trường cứ hoạt động mãi cho đến khi người Pháp mất quyền bảo hộ tại Đông-dương. Năm 1963, Trường đã chính thức giao cơ sở lại cho chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa. Các giám đốc của Trường gồm những nhà bác học danh tiếng như Louis Finot (tên ông đã được lấy đặt cho Viện Bảo Tàng của Trường trong thời Pháp thuộc), Alfred Foucher, Claude Eugène Maître, Léonard Aurousseau, v.v... Chính Trường đã gửi nhiều phái bộ đi khám phá các nơi ở Đông-dương, nhất là ở Bắc-sơn, Hòa-bình, Đông-sơn. (4)
Tương đối cùng một thời với Trường Bác-cổ, Nha Địa-chất Đông-dương đã đài thọ nhiều chương trình khảo sát đất đai. Những khám phá do các chương trình đó đem lại đã giúp cho khoa tiền sử tiến bộ rất nhiều. Chính trong những tập công bố kết quả các cuộc tìm tòi do Nha chủ trương (Bulletin du Service Géologique de l'Indochine), người ta biết được những giống người đã sống đầu tiên trên đất Việt-Nam, trước khi có người Việt-Nam thực sự. Công trình của Nha Địa-chất hợp với thành tích của Trường Viễn-đông Bác-cổ sẽ cho chúng ta thấy được phần nào hình ảnh của một quá khứ xa xưa mà trước đó không ai ngờ tới. (5)
Về phương diện cá nhân quan tâm đến vấn đề tiền sử Đông-dương, chúng ta thấy nhiều người Pháp có nhiều cố gắng kể từ khi nền bảo hộ của Pháp mới bắt đầu. Năm 1874, Roques, rồi Fusch và Moura, đã khám phá được nhiều cổ vật ở trạm Samrong-Sen, tại Cam-bốt. Ở Biên-Hòa, Chénieux tìm được các trạm tiền sử Xóm Cai-Vang, Cù-lao Mu-Rùa, Lò-gạch, Bình-đa và Bến-cả. Holbé đã tìm được trạm Mỹ-lộc, Yersin đã lượm được một số cổ vật ở vùng Ba-nà, đang lúc đó Henri Riovière chú trọng đến những cổ vật ở vùng Tuyên-quang. Năm 1886, Gustave Dumoutier theo Paul Bert từ SàiGòn ra Hà-Nội lập ra Bắc-kỳ Hàn-lâm-viện (nghị định ngày 3 tháng 7, 1886) để khảo cứu cổ vật và lịch sử và khi sự được một vài công trình xem xét ở địa điểm như Hoa-lư, Cố-loa. Nhưng đáng kể hơn cả trong việc gầy dựng nền tiền sử Việt-Nam, phải kể các tên Henri Mansuy và Madeleine Colani. (6)
Sinh ở Lorraine, Pháp, năm 1857, Mansuy đã trải qua một thiếu thời gian lao và buồn bã. Chỉ có bằng tiểu học làm căn bản kiến thức, ông đã sớm tỏ ra có khiếu về ngành địa chất học và cổ học, nên nhà bác học R. Verneau đã hướng dẫn ông một thời gian rồi liệu cho ông sang sinh sống ở Đông-dương. Tại đây, trong buổi đầu, ông đã gặp nhiều thất vọng. Nha Địa-chất chưa có để ông làm việc nên người ta đặt ông ở Nha Canh-nông. Dầu vậy ông đã tìm được dịp để thi hành khả năng của ông và năm 1901, ông đã thực hiện việc khai quật ở trạm Samrong-Sen, cũng đã gặp được nhân tích tiền sử đầu tiên, đó là một sọ người thuộc giống Anh-đô-nê bên cạnh những dụng cụ thời tân thạch. Năm năm sau, ở Phổ-bình-gia gần Bắc-sơn, ông đem ra ánh sáng hai sọ người xưa và một nền kỹ nghệ thạch khí, cổ hơn tất cả những khám phá đã thực hiện được về trước.
Bấy giờ, ông được may mắn gặp kỹ sư Lantenois, Giám đốc hầm mỏ Đông-dương. Ông nầy nhận thấy tài trí của Mansuy liền đem theo trong chuyến du khảo ở Vân-nam để dự định đặt hỏa-xa nối liền thị trấn đó với Hà-nội. Mansuy được một cơ hội tốt để minh chứng trong thực tế óc phán đoán địa chất rất vững vàng của ông. Khi trở về, Lantenois và Mansuy soạn thảo dự án thành lập Nha Địa-chất. Một Bảo tàng viện Địa-chất thành hình do chính Mansuy tổ chức và trông coi. Sau nhiều năm nghiên cứu đất đai ở Lào theo chương trình của Nha, ông đã trở lại Bắc-kỳ, và vào năm 1916, đến Kỳ-lừa, gần Lạng-sơn. Tại đây, ông đã tìm được di tích của những sinh vật cổ tương tự những sinh vật đã gặp được ở Siwalih, Ấn-độ, thuộc về thời Tân-sinh (néogène). Đến năm 1919, ông đã đạt được một thành tích rất đáng kể về mặt khảo cứu địa chất. Bà Colani nói: "Ông đi trên một địa hạt hoàn toàn mới mẽ, vậy mà, theo chỗ tôi biết, ông không hề lỡ một bước nào".
Sau một thời kỳ về nghỉ ở Pháp, ông lại Đông-dương để theo đuổi việc khám phá. Năm 1923, lần nữa ông đến Phổ-bình-gia, gặp được ở hang Keo phay cả một nền kỹ nghệ thạch khí, mang những dấu vết đặc biệt, sau nầy thường gọi là "những nét rạch Bắc-sơn". Ở Đồng-thước, ông cũng gặp được kỹ nghệ thạch khí, nhất là một sọ người thuộc loại Úc-Mã (austro-mélanésien). Từ đó, ốm yếu, ông không thể xong pha ở ngoài núi hang nữa, chỉ ở tại Viện Bảo tàng để nghiên cứu di tích của những tay thợ khác khám phá về, nhất là của bà Madeleine Colani. Năm 1926, ông trở về Pháp lần cuối cùng và mười một năm sau, năm 1937, ông đã tạ thế tại đó. (7)
Một trong những người cộng sự thông minh và kế nghiệp đắc lực của Mansuy, đó là bà Colani. Bà là một nữ bác học suốt đời tận tụy vì nền tiền sử Đông- dương. Sinh năm 1866, tai Strasbourg, Pháp, bà đã đậu cử nhân vạn vật năm 1908, đậu tấn sĩ khoa học năm 1914 và tấn sĩ quốc gia năm 1920. Sang Đông-dương từ năm 1899, bà đã bắt đầu với nghề dạy học, nhưng rồi, năm 1917, bà được chính thức làm nhân viên của Nha Địa-chất. Từ năm 1927, tức là năm bà về hưu, bà hoạt động cho Trường Viễn-đông Bác-cổ cầm đầu những phái bộ đi nghiên cứu nhiều nơi. Bà tiếp tục củng cố nền Tiền sử học Việt-Nam như vậy cho đến khi bà mất vào năm 1943.
Từ năm 1914, Mansuy đã hướng dẫn bà vào ngành cổ sinh vật học. Bà theo đuổi ngành đó mười năm, nhưng rồi từ cổ sinh vật học bà đã bước sang tiền sử học và cuối cùng kết thúc với nhiều công trình đáng kể về dân tộc học. Sự nghiệp bà thật là bao la. Năm 1923-1924, bà đã may mắn khám phá được một số sọ ở Làng-cườm (Bắc-sơn) trong một trường hợp đặc biệt. Sau khi đã thăm dò các hang trong vùng suốt cả buổi sáng, bà định trưa đó ở nhà nghỉ vì bà đang bị cúm, và để rồi dọn về Hà-nội. Không ngờ, lúc bà trùm chăn ở nhà, em bà là Éléonore Colani đem thợ đi đào cái hang cuối cùng mà hồi sáng chưa tìm tới, thì chính ở hang nầy đã gặp được 11 sọ người, nhiều xương, cùng nhiều dụng cụ tân thạch. Những sọ người vừa nói đã làm ngạc nhiên các nhà tiền sử vì tính cách hỗn chủng của nó. Theo bà nói thì các sọ đó thuộc về các loại như:
Mê-la-nê, giống lùn
Mê-la-nê, giống lớn
Úc
Mê-la-nê lai với Anh-đô-nê
Anh-đê-nê
Năm 1925, bà nghiên cứu trạm Chợ Gành ở tỉnh Ninh-bình. Từ năm 1926 đến năm 1929, lần lượt bà khai quật 33 trạm khác ở tỉnh Hòa-bình. Tại đây, cả một nền thạch khí xưa hơn của Bắc-sơn đã được xác nhận, đồng thời cũng gặp được nhiều sọ người thuộc giống Mê-la-nê và Anh-đô-nê. Năm 1930, bà vào Quảng-bình, làm việc ở các trạm Qui-đạt, Xóm Thôn, rồi tại tỉnh Thanh-hóa, ở làng Bon, Diên hạ Cho đến 1939, bà xem xét 45 hang ở Trung Việt, khám sát các hầm mỏ ở Quảng-ngãi như Tân-long, Sa-huỳnh, Phú-khương. Trong thời gian đó, bà cũng nghiên cứu chín trạm tiền sử ở Lào, nhất là Cánh Đồng Chum ở Trần-ninh. Tác phẩm bà viết về nền văn minh cự thạch tại vùng nầy thật là nổi tiếng. Nhân dịp bà mất, Claude Pascalis nhắc lại rằng ở Collège de France, vào mùa đông niên khoá 1937-1938, trong các bài dạy của Przyluski về di tích cự thạch ở Ấn-độ và Đông-dương, hằng tuần không khi nào mà không nghe đến tên bà. (8)
Cùng một năm khi bà Colani gặp được 11 sọ người cổ ở Làng Cườm, các nhà tiền sử học chú ý đến trạm Minh-cầm ở Quảng-bình, với chiếc sọ trẻ con thuộc giống da đen (negrito) và các dụng cụ tân thạch. Nhà địa chất học Étienne Patte nghiên cứu di tích ở đây xong, ông đã đến Đồng-hới xem xét trạm Bàu-tró (gần Tam-tòa). Một số dụng cụ tân thạch, nhất là đồ gốm đã được lưu tâm đặc biệt vì trang trí "giả dạng đan" của nó. Năm 1926, đại úy Patte còn khai quật ở Da-bút (tỉnh Thanh-hóa), một trạm tiền sử cùng một tuổi với Bàu-tró.
Cho đến năm 1933, giới cổ học và tiền sử học Đông-dương, sau khi đã lục soát và khai quật hàng nghìn hang cùng trạm để nhìn vào quá khứ, họ vẫn không khỏi ngạc nhiên, vì họ chỉ mới gặp đuoc dấu vết của văn minh tân thạch hạ, và xa lắm nữa cũng chỉ có trung thạch là cùng. Họ nghĩ rằng, tại đây, phải có những giống người xưa hơn thế nữa. Theo như lời họ nhận xét, các giống Mê-la-nê và Anh-đô-nê chưa phải là những giống người chiếm bản đảo nầy trước tiên. Họ lý luận giống như Mansuy, khi ông nầy nói:
Trình độ biến hóa của các giống người đó, mức phát triển của bộ óc họ, hình dáng cao mà hẹp của sọ họ, tất cả đó là bấy nhiêu đặc điểm không cho phép liệt họ vào hạng người xưa nhất của Viễn-đông. Đàng khác, không có gì ngăn trở việc sinh sống ở miền nầy của những người sơ khai (hominien) thuộc thời thượng-tân (plio-pléistocène), cả về phương điện khí hậu, cả về phương diện sơn thủy. (9)
Những gì mà các nhà bác học đang mong đợi vào năm 1933 đó, có lẽ đã gặp được vào năm 1936, khi nhà địa chất Jacques Fromaget theo đuổi công cuộc khai quật ở vùng Thượng-Lào.
Bấy giờ là Giám đốc Nha Địa-chất, Fromaget cũng hăng hái như bất cứ ai trong việc dò thám bí mật tiền sử. Ông đã có nhiều công về cổ học; năm 1925, ông đã khai quật ở các trạm Hang-rao, Khe-tông, tại tỉnh Quảng-bình. Nhưng công to hơn cả của ông là, mười năm sau, ông đã tìm được dấu vết của một thứ người mà ông nói là thuộc hạng sơ khai, hay sơ thủy (anthropien) nữa, ở các hang Tompong, Tam-hang. Tại hai hang nầy, ông đã lấy ra được di tích của lối ba chục sọ người, trong đó có những sọ mang đặc tính của những giống người xưa nhất của nhân loại.
II. Người sơ thủy và sơ khai ở Đông-dương?
Để thấy rõ sự quan trọng của vấn đề, thiết tưởng nên có một khái niệm về những tiếng giống người sơ thủy, sơ khai, dùng ở đây. Theo G. Montandon, thì nhân loại bắt đầu với những giống người xưa nhất:
- người sơ thủy (anthropien), ví dụ loại hầu nhân (pithecanthropus) với thể tích sọ gần 1000 phân khối,
- người sơ khai (hominien), ví dụ loại neanderthal, với thể tích sọ 1.500 phân khối, và có mõm na ná như mõm thú vật.
Như thế, muốn hiểu rõ ý nghĩa, cần phải biết, ít ra một cách đại cương, về các giống pithecanthropus và người neanderthal. (10)
Nguyên vào hạ bán thế kỷ 19, giữa cuộc tranh luận sôi nổi về tương quan biến hóa giữa giống người và giống khỉ, một số lý thuyết gia đã chủ trương rằng sẽ giải quyết được vấn đề đó một cách dứt khoát, nếu trong các di tích cổ sinh vật, gặp được một con vật trung gian có đặc tính vừa giống như khỉ, vừa như người, và họ gọi con người phỏng đoán đó là hầu nhân, nghĩa là khỉ + người. Thế rồi, vào năm 1889, một bác sĩ quân y Hòa-lan, Eugène Dubois, hăng hái vượt biển sang Java với mục đích tìm cho được dấu vết hầu nhân. Khi khai quật ở làng Trinil, trên bờ sông Solo, trong những lớp đất cấu tạo bởi phún thạch, ông đã gặp một chóp sọ, một xương vế, và hai chiếc răng. Sau một thời gian nghiên cứu, vào năm 1905, ông tuyên bố rằng những di tích kia là của một con hầu nhân có thể đứng thẳng (pithecanthropus erectus). Căn cứ vào các cổ vật nằm cùng một lớp đất, thì chỗ gặp con sinh vật mà Dubois gọi là hầu nhân, là thuộc về thời thượng-tân thượng (pliocène supérieur), tức là ở vào cuối đệ tam địa kỳ. Theo như các nhà cổ sinh vật phỏng định thì hầu nhân phải sống cách đây chừng 300.000 năm. Với khám phá của Dubois, những nhà bác học chủ trương biến hóa đắc thắng, vì lẽ họ đã gặp được con vật trung gian, hay theo cách họ quen nói, gặp được "cái vòng xích mất" (missing link) nó nối loài người với loài khỉ. Hầu nhân, theo họ, là thủy tổ của giống người chúng ta.
Nhưng, những khám phá thực hiện được ở Java chưa có thể minh chứng được một cách rõ ràng rằng con hầu nhân đã là người thật, nghĩa là có trí khôn, và phải đợi những khai quật ở Chu-khẩu-điểm mới có thể đoán chắc được. Chu-khẩu-điểm là một địa điểm núi đồi, cách Bắc-kinh 42 cây số về phía tây nam. Đào bới tại đây trong khoảng từ 1921 đến 1929, các nhà cổ học đã gặp được răng người, rồi xương hàm, rồi cuối cùng bác sĩ W. C. Pei đã tìm thấy một chóp sọ, tất cả mang những đặc tính giống như của di tích hầu nhân ở Java. Con vật mới nầy đã được mệnh danh là Hoa-nhân (Sinanthropus), nhưng nhà cổ học danh tiếng Marcellin Boule lại muốn gọi nó là Hầu-nhân Bắc-kinh (pithecanthropus pekinensis) đã nêu rõ dây liên lạc giữa khám phá ở Java và Chu-khẩu-điểm. Chỗ đặc sắc của khám phá Chu-khẩu-điểm là tại lớp đất của Hoa-nhân, bác sĩ W. C. Pei và giáo sĩ Teillard de Chardin đã nhận được dấu vết của bếp núc, dấu vết nầy chứng tỏ Hoa-nhân đã biết dùng lửa, mà đã biết dùng lửa tức là đã có trí khôn. De Chardin viết: "Dầu là hộp sọ có vẻ sơ thủy đến đâu, Hoa-nhân, với cách kết cấu bí ẩn của bộ óc nó, cũng đã vượt qua ngưỡng cửa huyền nhiệm phân cách tính tự phát và trí suy nghĩ. Chẳng những con người đó đã biết dùng dụng cụ - homo faber -, mà chắc chắn cũng đã có trí khôn - homo sapiens - (ít ra xét xề phương diện khả năng tư tưởng của nó)". Mấy hàng đó cho biết rằng Hầu-nhân và Hoa-nhân là những con người đứng ngay ở cửa vào của lâu đài nhân loại. (11)
Với người neanderthal - người sơ khai - đặc tính người không còn ai hồ nghi nữa. Đó là loại người cằm lẹm, vành xương ở đường lông mày nhô cao và tiếp giáp nhau, và nét mặt hết sức thô tháp. Con người đó, các nhà bác học đã gọi là người neanderthal - homo neanderthalensis - vì đã gặp được lần đầu tiên tại làng Feldhofer, trong vùng Neanderthal ở Đức, do một nhóm thợ đào đất. Về sau, những di cốt thuộc cùng một loại đã khám phá được ở nhiều nơi, như Pháp, Bỉ, Palestina, Abyssinia... Ở Đông nam Á, đại diện cho loại người này có 11 sọ tìm được ở Java ở chỗ gọi là Ngandong, do các nhà bác học W. Oppenoorth và G.H.R. von Koenigswald, và đã được gọi là người Ngandong, hay là Javathropus. Địa chất cũng như cổ vật thấy được ở các địa điểm có loại người neanderthal cho biết họ đã sống vào thời canh tân (pleistocène), nghĩa là cách đây từng 100.000 năm. Năm 1936, Koenigswald và Duyfjies còn lượm được ở Modjokerto (Java), một sọ trẻ con nằm ở lớp đất canh tân hạ, có những đặc điểm trung gian giữa loại hầu nhân và loại neanderthal. Người mới nầy thường được làng cổ học và nhân loại học gọi là homo modjokertensis. (12).
Đó là lược sử của các loại người sơ thủy và sơ khai. Nó nói lên tất cả sự kỳ cựu của giống người. Ấy thế mà ông Fromaget đã tuyên bố rằng ông đã gặp được di tích của những người như thế ở bán đảo Đông-dương.
Biết rằng đó là một vấn đề quan trọng, Fromaget đã tỏ ra rất cẩn thận khi ông trình bày kết quả những khai quật ông thực hiện được ở Tam-pou-lai, Tampong, Tam-hang. Truớc, ông tả địa chất của các trạm tiền sử đó, và cái di tích sinh vật gặp được. Ông viết:
"Trên cao nguyên Trần-ninh nầy, có một lớp hoàng thổ (loess) có màu vàng sáng, rất thanh, ở phía trên có tính chất đất sét nhiều hơn phía dưới. Lớp đất nầy hình như đã được gan xuống trong suốt thời thượng tân (pliocène, thời mới hơn hết của đệ tam địa kỳ). Ở mặt dưới của hoàng thổ và ở mặt trên của lớp đất tiếp đó, tại Tam-hang, tôi đã lượm được những di cốt của loài có vú, có chứa những nguyên tố thuộc lớp xưa nhất của đệ tam địa kỳ, như của Lạng-sơn, Quảng-tây, Trinil, Chu-khẩu-điểm, trong đó có một mảnh xương thái dương, xem ra thuộc về một người sơ khai (hominien), rồi những miếng xương bị rạch và có khi bị mài nữa, cùng một số đồ đá có mũi nhọn. Cũng gặp được một miếng xương hàm dưới của người sơ khai giữa đất sỏi, cách đó không xa...".
Khi đã nghiên cứu toàn thể, và để kẻ khác có một ý kiến tổng quát về những khám phá ông thực hiện được tại miền bắc dãy Trường-sơn và ở Thượng Lào, ông xếp tất cả kết quả lại tùy theo thứ tự tuổi tác của nó, nói:
1. Ở lớp thượng-tân (pliocène, đệ tam địa kỳ), đã có một người sơ thủy (un anthopien) biết lựa chọn ít nhiều những đồ đá rất thô. Điều đó có thể kể là đã chắc chắn.
2. Ở lớp cánh tân-hạ (pléistocène inférieur, đệ tứ địa kỳ) xuất hiện một người sơ khai thật (un véritable hominien) có họ hàng với Sinanthropus, nhưng sử dụng đồ đá và đồ xương thô hơn giống người nầy. (13)
Trước những khám phá mới mẻ và những lời quả quyết táo bạo của Fromaget và của Saurin, con người đã cộng tác chặt chẽ với Fromaget trong việc nghiên cứu các di tích vừa nói, làng cổ học và nhân loại học phần nhiều giữ một thái độ dè dặt, nếu không phải là hoài nghi. Étienne Patte, chẳng hạn, phê bình rằng lấy những viên đá thô tháp làm dụng cụ của giống người là một điều không khôn. Phần bà Colani, bà đòi phải có một công trình khảo xét thấu đáo, và phê phán có phương pháp nữa đã, mới có thể quả quyết dứt khoát được. Fromaget và Saurin không phải là không biết những câu cảnh cáo đó, dầu vậy họ vẫn không thay đổi lập trường. Họ tuyên bố kết quả trên đây khi đã nghiên cứu tám sọ người họ thâu lượm được. Năm 1938, sau khi nghiên cứu thêm bảy sọ nữa cùng thuộc về một xuất xứ, họ vẫn duy trì những lời họ đã nói tại Hội nghị Tiền sử Viễn-đông nhóm ở Tân-gia-ba. Về chiếc sọ gặp được ở phía nam Tam-hang với chỉ số quảng giữa 75 và 69.5, Fromaget nói rõ là nó thuộc loại người sơ khai giống như loại homo modjokertensis, tức là thứ người mà Von Koenigswald cho là con cháu của Pithecanthropus và Eugène Dubois lại cho hậu bối của giống Ngandong (Javanthropus).
Như thế, dầu di tích chưa được dồi dào và kết luận chưa được mọi người chấp nhận, chúng ta cũng đã có lý mà hy vọng rằng tận bán đảo Đông-dương nầy, loài người đã xuất hiện rất sớm, sớm như bất cứ ở một nơi nào khác trong miền Viễn-đông, và trên cả thế giới.
III. Các nền văn minh thạch khí
Từ khi bà Colani tìm được di tích tiền sử ở tỉnh Hòa-bình, tên Hòa-bình đã trở thành một danh từ cổ học để chỉ một thời đại tương đương với thời chuyển tiếp giữa giai đoạn cựu thạch và tân thạch, và nếu đứng về phương diện địa chất mà nhìn, thì chuyển tiếp giữa thời canh tân (pleistocène) và toàn tân (holocène), nghĩa là ăn vào quảng 12.000 năm đến 10.000 năm trước kỷ nguyên. (14)
Thật thế, trong các năm 1926, 1929, 1930, tại 33 hang hoặc khe đá ở một vùng rộng 1.300 cây số vuông giữa các tỉnh Hà-nam và Ninh-bình, nhiều vết tích của giống người sơ cổ đã được đem ra ánh sáng. Vùng đó là vùng Hòa-bình, một vùng có những núi đá xưa, nằm rải rác, khó đường đi lại, cây cối um tùm, ma thiêng nước độc. Nhưng cũng tại đó đang giấu ẩn một trang tiền sử quan trọng.
Khi đến làm việc ở các hang của tỉnh Hòa-bình, bà Colani đã sớm lưu ý điều nầy, là tại đây "những vật dụng do tay người làm ra, đã được giữ lại theo một thứ tự như nhau, nghĩa là loại nhỏ thanh, có đẽo gọt nhiều thì nằm ở lớp trên mặt. Chẳng những gặp đi gặp lại những cỡ và cách đẽo gọt giống nhau, mà cả hình dạng cũng giống nhau. Lại, giữa những kiểu mẫu cực đoan, vẫn gặp được những kiểu mẫu trung gian, nằm ở những lớp đất giữa, tỏ ra sự tiến bộ đã được thực hiện dần dần".
Ở Hòa-bình, loại thạch khí nằm ở lớp đất dưới hết gồm có những lưỡi đá đẽo bằng những nhát lớn và thường có đục lỗ, một đặc điểm chưa hề thấy ở một nơi nào khác. Cũng có một số rất ít những dụng cụ không có đục lỗ, hình bầu dục, giống như những dụng cụ vào hạng thô nhất gặp thấy ở Kèo-phay. Cũng ở lớp dưới hết đó, đôi khi còn gặp những đồ đá có tay cầm dài, được đẽo ở phía đối diện với tay cầm, có lẽ là những cái cuốc, những loại nầy thấy nhiều hơn ở lớp đất giữa. Tại lớp giữa, ngoài thứ dụng cụ vừa nói, lại có một thứ đồ dùng giống như rìu, chỉ mài ở đàng lưỡi còn các chỗ khác chỉ đẽo mà thôi. Thứ dụng cụ đó không phải riêng cho đất lớp giữa, mà là đặc điểm của lớp đất trên, một lớp mà trình độ văn minh giống hết sức với nền văn minh Bắc-sơn, như sẽ bàn đến sau. Theo đó, khi nói đến văn minh Hòa-bình, người ta có ý chỉ về nền văn minh của những viên đá có đục lỗ.
Có một điểm nữa đáng chú ý là ở Hòa-bình không hề gặp được những lưỡi đá mang vết, thường gọi là "đường rạch Bắc-sơn" tức là những đường mương nạo sâu sâu vào trên những lưỡi đá trơn. Bởi đó khi nói đến thời Hòa-bình, người ta nghĩ đến một thời xưa hơn thời những lưỡi đá vừa tả. Nhưng việc quyết định thời đại cho nền văn minh Hòa-bình không phải vì đó mà dễ dàng hơn. Nếu những lưỡi đá Bắc-sơn, được mài trơn, là thuộc về thời tân thạch, thì những lưỡi đá có đục lỗ của Hòa-bình thuộc về thời nào? Một lúc, các nhà cổ học đã do dự, đã bàn, vì ngay ở lớp dưới hết của những trạm Hòa-bình, người ta không gặp toàn những lưỡi đá thô mà đôi khi còn lạc vào những dụng cụ có dấu mài nữa.
Theo sự nhận xét của bà Colani, thì văn minh Hòa-bình thuộc về thời cựu thạch thượng và sau đó không phải tiếp liền đến thời Bắc-sơn. Thứ tự bà sắp xếp là:
Cựu thạch thượng
Tân thạch hạ
Bắc-sơn
Để định nghĩa thời Hòa-bình, bà cũng nêu ra những yếu tố giống như của Sarasin đã nêu ra về các lớp văn minh tiền sử ở Tích-lan, nghĩa là "không có dấu bấy giờ đã biết mài, nhất là thiếu hẳn lưỡi đá tân thạch, ngoài ra hoàn toàn không có đồ gốm và không có những dụng cụ khả dĩ tỏ ra là đã có nông nghiệp, sau hết thiếu gia súc, có lẽ chỉ trừ loại chó, vì gặp được dấu tích của nó ở hang Nilgala, nhưng cũng không chắc chắn lắm".
Khi nói như thế, không phải bà Colani không nhớ đến những lưỡi đá có mài ở mép gặp được tại lớp đất dưới hết của các hang Hòa-bình. Trái lại, bà rất chú trọng đến hiện tượng đó, và nhận thấy rằng hiện tượng đó không phải là không thể giải thích để nó phù hợp với định nghĩa trên. Trước kia chính vì sự hiện diện của những lưỡi rìu mài ở mép nầy ở lớp dưới, mà bà đã xếp văn minh Hòa-bình vào thời trung thạch, nghĩa là giữa cựu thạch và tân thạch, nhưng rồi bà lại chọn tiếng cựu thạch thượng. Bà nói:
"Theo một định ước ai cũng thừa nhận, thì những lớp đất bếp (kjokken moddinger) chứa dụng cụ đá trơn, dầu là chỉ trơn ở mép mà thôi cũng vậy, đều thuộc về thời tân thạch; theo gót ông Heine-Geldern, chúng tôi đã xếp nó vào thời trung thạch. Nhưng càng đào bới các trạm tiền sử, chúng tôi càng thấy rằng tiếng đó không được ổn. Mặc dầu có gặp dấu mài sơ sơ đó, chúng tôi vẫn thường có một cảm tưởng gần như chắc chắn là chúng tôi đang đứng trước những đá cựu thạch, những đồ đá nầy đôi khi rất thô tháp." (15)
Rồi bà lý luận: "Bên cạnh một trạm chỉ có đồ đá cựu thạch, nếu gặp được một trạm khác cũng chứa các đồ đá đó lại có xen vào một vài lưỡi đá có dấu mài ở mép (Keo-phay), mà cho rằng trạm trước là cựu thạch, và trạm sau là trung thạch, nghĩa là tân thạch hạ, thì đó là một việc không thể chấp nhận được". Đẻ củng cố ý kiến đó, bà nhắc lại một nhận xét của R. Verneau, mà bà cho là rất đúng. Verneau chép:
"Nhưng, nói cho phải, sự mài đó, nó quá thô sơ, quá cổ lỗ, đến nổi không sao so được với lối mài của thời tân thạch thực sự, như chúng ta sẽ thấy. Lối mài đó, nơi người thợ, không bao hàm những kiến thức kỹ thuật thâu lượm được sau khi đã làm đồ đá một thời gian lâu. Tôi đi xa hơn nữa và nghĩ rằng lối mài thô sơ đang nói tới ở đây, tại những xứ vốn gặp được nhiều những lưỡi đá mà hình dáng dễ dàng đem ra dùng được, lối mài đó hoàn toàn có thể có trước khi người ta biết đẽo đá để dùng. Nó không đòi phải sáng trí hay tài tình giống như khi làm các dụng cụ đẽo thuộc loại Saint-Acheul chẳng hạn." (16)
Cho vấn đề được rõ hơn, bà Colani đã phân biệt hai lối mài, một lối mài hồn nhiên, tức là khi người sơ cổ nảy ra ý kiến làm cho trơn qua loa một chỗ có cạnh sắc, và lối mài phải học, tức là một người tập sự phải nhờ một người khác kinh nghiệm hơn dạy vẽ cho cách mài xiên để một lưỡi đá cứng trở thanh sắc cạnh, như trường hợp các độ đá Bắc-sơn. Theo ý bà, lối mài thứ nhất là một đặc điểm của văn minh Hòa-bình.
Mặc dầu những phân biệt tỉ mỉ và bác học đó, bà Colani, cũng như ông Mansuy, vẫn nghĩ rằng họ chưa nói lên hết được các chỗ riêng biệt của nền văn minh Hòa-bình. Họ nhận thấy nền văn minh tiền sử Việt-Nam có một cái gì khác thường nơi nó, khó mà đem so sanh một cách dứt khoát với các thời, các tuổi, đã được qui định rõ rệt hơn ở Âu-châu. Nhưng để cho nó có một chân đứng trong nền tiền sử thế giới, việc so sánh không sao tránh khỏi được. Bởi đó, thay vì gọi bằng danh từ thời Hòa-bình như hai nhà bác học Pháp muốn Hội nghị Địa-chất quốc tế nhóm ở Mễ-tây-cơ năm 1956 đã quyết định liệt văn minh Hòa-bình vào thời trung thạch, có ý tránh phải đi vào chi tiết mỗi khi nói đến nền văn minh đó.
Khi tìm tuổi cho thời Hòa-bình, chúng ta đã thấy qua vị trí của nền văn minh Bắc-sơn, nghĩa là thuộc về thời tân thạch. Nhưng việc định tuổi cho nền văn minh đó, nếu không phải phức tạp như trong trường hợp văn minh Hòa-bình, cũng không phải là một việc đơn giản.
Trước hết, Bắc-sơn khác Hòa-bình không phải chỉ về thời đại, mà còn về cách tiến hóa nữa. Bà Colani ghi nhận rằng: "Chẳng những sự tiến hóa kỹ thuật của Bắc-Việt khác với của Âu-châu, mà nó cũng không giống nhau giữa hai miền chỉ xa nhau chừng trên một trăm cây số, đó là một sự kiện lạ kỳ và rất quan trọng". (17) Để thay rõ tính cách lạ kỳ và quan trọng này, nên phân tích dần dần.
Xét về mặt địa thế, Bắc-sơn là một vùng có nhiều đồi đá vôi thuộc về loại thạch thán (anthracolithique), nằm ở đường biên giới hai tỉnh Lạng-sơn và Thái-nguyên. Nhìn theo các đường chính, những đồi đó qui tụ trong một khu hình chữ nhật tọa lạc theo hướng đông bắc, phía bắc giáp Phố-bình-gia, phía đông giáp Lạng-sơn, phía nam giáp Kép, phía tây giáp Thái-nguyên. Đồi đá vôi ở đây không chạy thành những dãy liên tiếp. Trong các đồi đó thường có nhiều hang, hoặc những chỗ đá nứt lâu ngày bị nước xói mòn thành những khe rộng.
Như đã thấy trên, con người đầu tiên đã gặp được lưỡi đá Bắc-sơn, đó là Henri Mansuy. Năm 1906, ở một hang nằm về phía bắc vùng nầy, trong làng Phố-bình-gia, ông đã lượm được ngay ở cửa vào hang, trong mặt lớp đất kjokkenmodding, hai lưỡi đá chỉ nhận được dấu mài ở mép, đồng thời với ba sọ người thuộc giống Anh-đô-nê. Đã quen với những dụng cụ thời tân thạch thượng tìm được ở Samrong-sen (1901), một trạm mà giữa các đồ đá ông đã gặp được dấu vết đồ đồng, ông nghĩ rằng những lưỡi đá của Phố-bình-gia phải thuộc về một nền văn minh xưa hơn. Năm 1923, ông trở lại đó và sung sướng nhận thấy rằng điều ông nghĩ không sai. Đào hang Phố-bình-gia lần nữa, và quan sát cẩn thận, ông gặp được ở lớp đất trên những đồ đá thuộc về thời tân thạch thượng, và xuống sâu hơn, ở lớp đất sâu hơn, ở lớp dưới đất, bấy giờ mới thấy toàn những dụng cụ thuộc nền văn minh Bắc-sơn. Đây ông tả các dụng cụ đó: "Dụng cụ gặp được ở Bắc-sơn bằng các thứ đá lửa cornéenne và ryolite đều thuộc về loại cỡ lớn, với đặc điểm nầy là chỉ có mài ở mép còn cả mặt lưỡi đá là một hòn đá tự nhiên, đôi khi có sữa chữa sơ sơ, ở bờ có đẽo cho đều". (18)
Những điều làm cho các nhà bác học ngạc nhiên hơn cả, đó là những đường mương nhỏ mài vào lưỡi đá, thường gọi là "đường rạch Bắc-sơn". Ở Phố-bình-gia, cũng như ở tất cả các hang thuộc vùng nầy, những lưỡi đá mang đường rạch đó gặp được nhan nhãn. Mansuy viết: "Trong tất cả các hang ở Bắc-sơn, người ta đều lượm được những lưỡi phiến nham mang một hay nhiều đường rạch do một dụng cụ nhỏ, chẻ hai, mài vào, không rõ dụng cụ đó là gì. Các đường rạch đó bao giờ cũng nằm ở góc của lưỡi đá. Đó là những đường mương nhỏ, rộng từ sáu đến bảy ly". Ông gọi những lưỡi đá nầy là những viên đá mài, và nói là đã lượm được hàng nghìn viên như vậy. Nhưng thực sự, hỏi những đường mương kia có phải chỉ là những dấu của một vật nhỏ, cứng và nhọn mài vào lưỡi đá một cách tình cờ, chứ không phải là có một ý nghĩa nào khác? Hỏi đá mài sao mà nhiều như thế? và đá mài thường là những viên đá lớn, sao đây lại bé như thế? Chắc rằng kiến giải cho các lưỡi đá Bắc-sơn là những viên đá mài không cắt nghĩa được sự việc một cách thỏa đáng. Vậy các đường mương nhỏ kia có ý nghĩa gì?
Đi tìm ý nghĩa cho "những đường rạch Bắc-sơn" không phải là một việc dễ dàng. Sau mấy chục năm dò xét, các nhà bác học chỉ mới thấy được một tia ánh sáng lờ mờ, căn cứ vào một lưỡi đá hiếm có bà Colani đã gặp được ở Lèn đất, trong tỉnh Lạng-sơn.
Năm 1915, tại hang vừa nói, chỉ cách làng Cườm có mấy cây số, bà Colani gặp được một lưỡi đá nhỏ trên đó có vẽ hình ở cả hai mặt. Dưới đầu đề "hình vẽ không rõ ý nghĩa", bà đã cận thận tả những gì bà quan sát được trên lưỡi đá. Theo bà thì một mặt mang rõ rệt hai vết dài, giống hệt "những đường rạch Bắc-sơn", còn mặt kia thấy một hình phức tạp gồm nhiều nét kẻ khó hiểu. Mô tả xong, bà kết luận: "Hình đó xem ra không phải là trực tiếp chép lại thiên nhiên, nhưng là một hình được kiểu thức hóa, gần giống như những chữ tượng hình." (20) Chính hình phức tạp đó, năm 1957, Paul Lévy đã đem ra phân tích, và nhờ ông một ý nghĩa đã được gợi ra cho những đường mương ở mặt bên kia.
Theo như Paul Lévy hiểu, thì hình phức tạp đó là một hình trực tiếp chép lại thiên nhiên, hay nói cho đúng hơn, chép lại một vật do tay người ta chế tạo ra", và ông nói rõ vật nầy là cái cày. Ông chia hình vẽ ra thành từng phần và so các phần đó với thành phần của một cây cày. Cuối cùng ông không ngần ngại đoán rằng nó "giống cây cày của thế giới Trung Hoa, kèm theo một số tiến bộ, như có lưỡi sẻ và bắp cày cong, đó là những chi tiết mà cây cày của vùng Caucase đang có ngày nay". (21)
Nhưng nếu lưỡi đá mang hình cây cày, chắc lưỡi đá thuộc về một thời đại mới?
Bà Colani xem xét kỹ lưỡi đá, nói: "Lưỡi đá nhỏ đã bị mòn nhiều; hình kẻ, nhìn qua dường như mới, nhưng lấy kính "lúp" (loupe) mà coi, thì nó vẫn có một lớp váng". Paul Lévy cắt nghĩa tiếp: "Lớp váng đó không đủ để định thời gian, vì một đàng, nét kẻ chỉ ăn vào lớp váng khá dày của lưỡi đá, và đàng khác, những chỗ nét kẻ kia chỉ ăn vào sâu vì bị sửa chữa, thì lại thấy rõ là có ít váng". Dầu vậy tuổi của lưỡi đá có thể định được một phần nào, vì lưỡi đá gặp được ở một thước sâu trong lớp kjokkenmodding và nằm giữa những thạch khí Bắc-sơn. Paul Lévy nói thêm: "Về phần tôi, tôi không do dự cho rằng hai đường mương ở lưng của lưỡi đá là "những đường rạch Bắc-sơn" trứ danh kia, nhưng được kẻ theo một kỹ thuật khác, và kẻ ở trên mặt phẳng của lưỡi đá. Lại sự đường rạch đi đôi với cây cày đó không phải là một sự tình cờ, và rất có thể rằng "đường rạch đó là một đường cày". Để nhấn mạnh vào ý kiến xem ra quá mới mẻ và quá táo bạo của ông, Lévy đặt một câu hỏi: "Các dấu vết đồng áng vào thời đồng đen, rất quen biết đối với những thổ khác Bohusland (Thụy Điển) hoặc của Vallée des Merveilles (Ý) kia, mà nay gặp lại ở Bắc-Việt vào một thời không lâu lắm trước kỷ nguyên, đang lúc đó, chiếu theo một tục lệ ăn sâu mãi vào trong đêm tối thời gian, các vua Trung-quốc, hằng năm, vẫn mở những đường cày đầu tiên, thì hỏi có gì là lạ?" (22)
Nhưng, khi lưỡi đá ở Lèn đất đem lại một gợi ý khả dĩ giải thích những "đường rạch Bắc-sơn", có phải cùng một lúc nó đã làm cho tuổi của nền văn minh Bắc-sơn trẻ lại hơn nhiều không? Theo như Mansuy và Colani thì tuổi đó phải ở vào thời tân thạch, và tân thạch vào hạng xưa hơn hết kia, vậy mà nay Paul Lévy đem lên so sánh với thời đồng đen? Thắc mắc nầy thiết tưởng không có căn cứ bao nhiêu, vì một vật giúp vào việc giải thích ý nghĩa một vật khác, đâu có nhất thiết phải đồng thời với vật đó. Sự thực, lưỡi đá ở Lèn đất đỏ ra là đã tiến bộ rất xa so với các lưỡi đá Bắc-sơn. Chúng ta thấy lưỡi đá Lèn đất có vẽ ở cả hai mặt, đang khi các lưỡi đá Bắc-Sơn chỉ có "đường rạch" ở một mặt. Chúng ta cũng nên ghi nhận điều nầy nữa là hai đường mương ở lưỡi đá Bắc-sơn được rạch một cách thô và nằm ở góc lưỡi đá, còn hai đường mương của lưỡi đá Lèn đất thì nằm ở giữa, đó là chưa nói đến tính cách phức tạp và tiến bộ của hình vẽ ở mặt bên kia, mà Lévy nói là hình một cây cày. Nhưng còn một vài câu hỏi nữa: "Cho rằng những đường mương ở lưỡi đá Bắc-sơn là những đường cày, ấy là chủ trương trong thời Bắc-sơn đã có nông nghiệp; sao nông nghiệp có thể xuất hiện sớm như vậy ở vùng thượng du Bắc-kỳ? Đàng khác, văn minh Bắc-sơn là văn minh của những giống người Mê-la-nê và Anh-đô-nê, nhưng những giống người nầy, mãi cho đến ngày nay đại đa số vẫn làm rẫy, chứ đâu có cày, do đó, hỏi sao ở những thời xa xưa như thế, họ đã lấy đường cày làm quý đến nổi rạch vào lưỡi đá? Đó là những khó khăn khiến cho những "đường rạch Bắc-sơn" vẫn nằm mãi trong vòng bí ẩn.
Bắc-sơn, ngoài những lưỡi đá mài ở mép, và những đường mương bí ẩn đó, còn quan trọng ở chỗ nó có thể biểu lộ sự tiến hóa đột ngột của nền văn minh đồ đá. Thật thế, cuộc khai quật ở Kéo-phay đã mang lại cho Mansuy nhiều ý kiến hữu ích. Lớp kjokkenmodding của hang nầy dày một thước, gồm đất sét và đất vôi, bị đen bởi chất than vì ở đó có nhiều bếp, và chia thành từng lớp. Vật dụng lượm được tại đây, có hai lưỡi đá mài ở mép, một lưỡi nữa mới được phác sơ qua, rồi những miếng đá giống như những cái chày dùng để nghiền, và những cái cào tương tự như đồ vật gặp được ở Âu. Nhưng điều đáng chú ý hơn cả, vì nó tỏ ra rất khác với cách chuyển hóa các tầng lớp dụng cụ thường thấy ở Hòa-bình, là sự hiện diện của những lưỡi đá đẽo nó làm nổi bật lên một sự tiến bộ vượt cấp. Mansuy viết rằng: "Sau cùng gặp được những dụng cụ bằng đá lửa (ryolite) có chất vân ban (porphyre) chỉ đẽo chứ không mài, những dụng cụ đó mang các tính cách của đồ đá đẽo thuộc thời cựu thạch, cùng một lúc, lại có những đặc điểm bắt phải nghĩ đến một sự tiến hóa địa phương đặc biệt về mặt kỹ thuật; có thể nói được là một thay đổi mau chóng đi từ cựu thạch đến lớp tân thạch dưới hết, mà không theo một thứ tự cấp bậc thường lệ nào". (23)
Về sau ông đã gặp lại hiện tượng đó ở nhiều hang khác, như ở hang Làng Loi, hang Cồn Khe, khiến tư tưởng ông một lâu một xác định. Ông thấy rõ điều nầy là thứ đồ đá chỉ đẽo mà thôi của Kéo-phay thuộc về cùng một loại như các dụng cụ khám phá được tại lớp dưới hết của các hang Hòa-bình, mà ở Hòa-bình nó lại không trộn với đồ đá Bắc-sơn, còn đây, nó nằm sát bên cạnh nhau. Vì vậy, ông kết luận: "Chúng tôi xin lập lại lần nữa rằng ức thuyết nầy đã xuất hiện trong óc, là tại Đông-Nam-Á, sự mài đồ đá đã được du nhập vào bởi một thứ dân đến định cư ở vùng nầy, tiếp theo sau một dân khác chỉ biết đẽo đá một cách thơ sơ mà thôi". (24) Rồi, dựa vào kết quả thâu lượm được sau mấy mươi năm nghiên cứu những số người xưa gặp được ở Bắc-sơn, ở Hòa-bình, ông đã can đảm nói lên ý kiến nầy:
"Căn cứ vào sự người Anh-đô-nê nằm bên cạnh người Mê-la-nê ở đáy các lớp trầm tích trong các hang, và sự thân thuộc về mặt chủng tộc giữa hai giống người nầy, thiết tưởng rất có thể rằng giống người trước phát tích từ lục địa, đã đến từ miền tây xa xăm, sau giống người thứ hai, tức là giống mà người ta có thể đoán được, mặc dầu là không chắc chắn, là đã vào đây từ các đảo của biển Úc hiện nay còn mang tên họ, và ở đó họ còn tồn tại." (25)
Trước khi bàn đến dài giòng hơn về xuất xứ của các giống người Anh-đô-nê và Mê-la-nê, tưởng nên nói về một nền văn minh thạch khí mới hơn của Bắc-sơn, tức là loại lưỡi đá có tay cầm (hache à tenon). Nói rằng mới hơn của Bắc-sơn, là có ý hiểu về những đồ đá đặc biệt của thời đó, chứ loại đá có tay cầm nầy vẫn gặp được ở chính Bắc-sơn, trong một lớp đất trên hơn, cũng như ở Hòa-bình, ở Sơn-la, ở Trần-ninh, Samrong-sen. Hơn nữa loại nầy còn khám phá được tại nhiều nơi ở vùng Đông-Nam-Á, như ở Nhật-bản, Ấn-độ, và ở các đảo, Polynésie, ở Malaisie.
Đó là những lưỡi đá nhìn giống như những lưỡi xên nhỏ, được mài ở mép hoặc trên toàn mặt. Nó có nhiều cỡ, lớn, nhỏ, dày, mỏng, đường mép nó cũng có khi thẳng, khi cong, và chính mép nó lại có khi được mài xuôi, khi cắt chéo. Tay cầm của nó bắt nghĩ đến một cái cán để xâu nó vào, và nếu có cán, tất phải có những cái khâu bằng kim khí để giữ. Étienne Patte còn nói: "Hình dáng của những dụng cụ có tay cầm có thể cho chúng ta dự đoán là người ta đã biết những dụng cụ bằng kim khí, khi xem xét những mũi lao bằng đá mài làm theo một kiểu khác thường gặp được ở Tuyên-quang người ta cũng phải nghĩ như thế. Như gặp được trong nhiều xứ, đa số những dụng cụ quen gọi là tân thạch, không được kể là hoàn toàn không có kim khí xen vào". (26)
Ở Đông-dương, chưa gặp được dụng cụ bằng kim khí ở đất nầy của thời tân thạch, nhưng thuộc về cùng một lớp còn có những vòng đá lớn nhỏ, những lưỡi rìu, lưỡi cào, v.v... Đồ gốm thì thường bằng đất sét thô có trộn cát, được trang trí bằng lối đan mắt lưới, hoặc bằng nhiều kiểu đan đơn giản khác. Đó là nền văn minh trung gian giữa thời thạch khí và đồng đen, mà các nhà bác học là đã được thực hiện vào lối hai nghìn năm trước Kỷ nguyên.
IV. Chủ nhân các nền văn minh thạch khí
Như chúng ta vừa thấy, trong thời thạch khí, có ba nền văn minh lớn ở đất Việt-
Nam, đó là nền văn minh Hòa-bình, nền văn minh Bắc-sơn và nền văn minh đồ đá có tay cầm. Lại theo như lời của Mansuy trích trên đây, giống người Mê-la-nê là chủ nhân ông của những viên đá có khoét lỗ, và giống người Anh-đô-nê là chủ nhân ông của những lưỡi đá có đường mương. Nhưng nói thế chỉ là có ý nói dân Mê-la-nê đến trước và dùng đồ đá đẽo, và dân Anh-đô-nê đến sau và dùng đồ đá mài ở mép, chứ không phải muốn vạch một ranh giới dứt khoát giữa hai giống người, về phương diện thời gian cũng như về phương điện khu vực. Sự thật hai giống người đó chẳng những đã nằm kề bên nhau trong nhiều hang, mà còn gặp được những số người lai Mê-la-nê và Anh-đô-nê, tỏ ra rằng họ đã cùng sống với nhau trong một thời gian khá dài. Sau đây xin trình bày rõ hơn.
Ở Hòa-bình, cùng một lúc với đồ đá, bà Colani đã khám phá được nhiều di tích người. Trong những di tích có thể dùng được, nên kể một miếng xương hàm trên gặp được ở Sao-động, nó giống xương hàm trên của một số tìm thấy ở làng Cườm. Ở làng Gạo, bà lượm được một số sọ thuốc giống Mê-la-nê và Anh-đô-nê.
Ở Bắc-sơn, theo bản phúc trình ở Hội-nghị Địa-chất Quốc-tế ở Mễ-tây-cơ năm 1957, thì số sọ thu hoạch được lên đến 39 chiếc. Hang đá giấu nhiều sọ hơn cả là hang làng Cườm. Tại đây, kể cả số sọ nguyên và những miếng sọ có thể dùng được, tất cả có đến 15 chiếc, phân loại như sau:
3 sọ Mê-la-nê thường,
2 sọ Mê-la-nê tí hon,
1 sọ Mê-la-nê lai Úc,
1 sọ Mê-la-nê lai Anh-đô-nê,
5 sọ Anh-đô-nê,
1 sọ Anh-đô-nê lai loại da đen,
1 sọ Anh-đô-nê lai loài Mông-cổ,
1 sọ thuộc giống Úc.
Ở hang Khắc-kiêm và hang Đồng-thước, mỗi hang có một số sọ Mê-la-nê, hang Phổ-bình-gia có hai sọ Anh-đô-nê, và hang Kéo-phay có 1 sọ Anh-đô-nê.
Tại các hang khác, số sọ lượm được chia ra như sau:
- Chợ-Gành, 1 sọ Anh-đô-nê
- Hàm-Rồng, 1 sọ Anh-đô-nê
- Đa-bút, 1 sọ Anh-đô-nê
- Tam-hang, 1 sọ Mê-la-nê,
2 sọ da đen,
2 sọ thuộc giống Anh-đô-nê lai Mông-cổ,
1 sọ da đen lai giống người riêng ở Tam-pong,
1 sọ lai ba giống Anh-đô-nê, Mông-cổ, Tam-pong.
Nhìn một cách tổng quát vào mùa gặt tiền sử đó, có lẽ ai cũng có nhận xét nầy, là ngay từ những thời xa xưa, như thời trung thạch và tân thạch, vùng cổ Việt đã là nơi hẹn hò cho nhiều giống người. Tính cách hổn chủng của những chủ nhân ông tại đây không phải chỉ tỏ ra ở chỗ có nhiều giống người sống bên nhau, mà nhất là ở chỗ có nhiều thứ người lai, nào là Mê-la-nê lai Anh-đô-nê, nào là Mê-la-nê lai Úc, nào là Anh-đô-nê lai da đen, Anh-đô-nê lai Mông-cổ. Sự lai giống đó cho biết rằng họ đã có một cuộc sống chung mật thiết với nhau và có lẽ trong một thời gian lâu dài nữa.
Các giống người đó có sống chung, nhưng chắc chắn không phải họ xuất hiện ở đất cổ Việt một lượt với nhau và rồi cũng biến đi với nhau một lượt. Vậy, trong các giống Mê-la-nê, Anh-đô-nê, Úc, da đen, Mông-cổ, mà di tich thấy được trong trạm tiền sử Việt-Nam đó, hỏi giống nào đã đến trước giống nào, và số phận họ ra làm sao?
Theo như số sọ vừa kể trên, thì giống Mê-la-nê là tương đối nhiều hơn cả, rồi đến giống Anh-đô-nê. Lại họ cũng là những giống người tương đối xưa hơn. Hỏi họ có phải là thổ dân không hay là từ một chỗ nào khác đến? Có lẽ không ai chủ trương rằng các dân đó là thổ dân của đất Việt-Nam, mặc dầu mãi đến ngày nay họ vẫn còn có đại diện trong các dân thiểu số ở vùng sơn cước. Muốn là thổ dân, họ phải dòng dõi của giống người thuộc loại homo modjokertensis gặp được ở Tâm-hang, nhưng xét ra từ giống người vừa nói cho đến các giống Mê-la-nê, Anh-đô-nê của Hòa-bình và Bắc-sơn, sự biến hóa đã vượt một khúc đường quá dài đến nổi không thể nào có liên thuộc, lại giữa hai loại di tích vẫn chưa gặp dấu vết gì khả dĩ làm những vòng nối kết. Còn về vấn đề họ từ đâu đến, Mansuy đã nêu ra một lời đáp rụt rè nói rằng giống Mê-la-nê có thể từ các đảo mà vào, và giống Anh-đô-nê từ lục địa phía tây đổ xuống. Chúng ta thử xét xem có nền tảng nào nâng đỡ lời nói đó không.
Thực ra trước khi các nhà bác học gặp thấy ở Bắc-Việt, di tích giống người Mê-la-nê đã xuất hiện nhiều nơi trên thế giới, như ở Lagos Santa (Ba-tây), ở Pericuz (Mễ-tây-cơ). Từ năm 1881, nhà bác học Pháp de Quatrefages đã nhấn mạnh rằng có thể có liên lạc giữa sọ người gặp được ở Lagos Santa và dân cư xứ Tân Guinée, nhưng ông chưa dám quả quyết rằng hai đàng thuộc về cùng một giống. Cũng năm đó, Ten Kate đi xa hơn tí nữa và cho rằng những người xưa kia định cư ở bán đảo California (Mỹ) và ở các đảo lân cận, vừa có tính cách của giống Mê-la-nê, vừa có tính cách của giống da đỏ; họ thuộc về cùng một giống như của chiếc sọ gặp được ở Lagos Santa. Năm 1909, P. Rivet đã kiểm soát lại tất cả vấn đề một cách khái quát và kết luận rằng: "Cơ dân của bán đảo California và mẫu người của Lagos Santa gặp được khắp Nam Mỹ, vẫn có những tương tự rõ rệt với giống người có hình sọ cao mà hẹp (hypsisténocéphale) nầy định cư rất nhiều ở Mélanésie và ở Úc Châu. Và gần đây, luận đề nầy lại đã được R. Verneau xác nhận! (27)
Quả vậy, R. Verneau đã theo dõi vấn đề một cách rất gần, và ông nhận thấy càng lâu, phạm vi sinh sống xưa của giống Mê-la-nê càng nới rộng ra. Sau khi giáo sĩ Rochereau biếu viện Bảo tàng Paris một chiếc sọ về giống người đó gặp được ở Tunébo (Columbia), ông càng cảm thấy chắc chắn hơn nữa trong tư tưởng của ông, vì như vậy là đã có một dây nối giữa Đại-tây-dương và Thái-bình-dương. Ông viết: "Ngày nay, xem ra không còn được phép hồ nghi gì nữa về lĩnh vực rộng lớn của giống người Papoua ở Tân Calédonie. Chúng ta đã có thể theo dõi dấu vết của họ: Về phương diện khu họ chiếm cứ thì từ California hạ cho đến tận cùng Nam Mỹ, và từ Đại-tây-dương cho đến Thái-bình-dương; về phương diện thời gian, thì từ khi giống người đó sinh sống ở Lagos Santa cho đến ngày nay". (28) Như thế, chủ trương rằng giống Mê-la-nê đã từ miền biển du nhập vào vùng cổ Việt, không phải là không có lý. Chẳng những họ đã từ đại dương tràn vào cổ Việt mà còn có tràn vào cả lục địa Trung-hoa nữa. Ngày nay, sử sách Trung quốc vẫn nói rằng "mả lai chủng" đã chiếm nước đó khi nòi giống Trung hoa bắt đầu xuất hiện. (29)
Giống Anh-đô-nê, thì Mansuy đoán là từ lục địa đến. Hỏi lời phỏng đoán nầy có giá trị bằng nào? Tìm được một câu trả lời hoàn toàn thỏa đáng cho vấn đề nầy thật là một việc khó khăn. Charles Robequain đã tìm và đã để lộ ra cảm tưởng đó. Khi đã cân nhắc các bài nghiên cứu của các nhà bác học như Sylvain Lévy, J. Przyluski, Georges Coedes, Louis Finot về giống Anh-đô-nê, ông đã kết thúc chương trình của ông bằng một câu hỏi, rồi giao trách nhiệm giải đáp cho các nhà ngữ học. Ông viết: "Có phải (người Anh-đô-nê) đã đến từ miền Đông nam, từ quần đảo Indonésie ngày nay, hay từ Tây bắc, nghĩa là Ấn-độ qua? Về xuất xứ của họ không ai được biết, nhưng về mặt ngôn ngữ, có thể đoán được rằng, trước cuộc xâm lăng của giống Aryen, dân cư của Ấn-độ (nhóm Munda) vẫn có liên lạc với các dân của bán đảo Đông dương (nhóm Môn-khmer) và dân Malaisie". (30)
Về dây liên lạc giữa các dân mà Robequain nhắc đến đó, nhà ngữ học V. Schmidt có một kiến giải rõ ràng. Schmidt đã nghiên cứu các thứ tiếng mọi, tức là tiếng của dòng dõi giống Anh-đô-nê hiện còn sống sót ở miền sơn cước Việt-Nam, như tiếng của dân Samreh, Kha-so, Hin, Mi, Khmu, v.v... và chẳng những ông đã quả quyết rằng các tiếng đó thuộc về nhóm Môn-khmer, mà ông còn làm chứng về những dây liên lạc giữa nhóm Môn-khmer và nhóm Munda. Đi xa hơn tí nữa, ông luận rằng hai nhóm đó phải có cùng một gốc tổ, nghĩa là một thứ tiếng chung làm căn bản cho cả hai. Mở ra cho các nhà tiền sử một triển vọng bao la, ông viết:
"Như thế chúng ta có lý do để phỏng đoán rằng, cùng với sự duy nhất ngôn ngữ mênh mông, tức là một sự duy nhất đã được biết chắc ở miền Đông-dương và Ấn-độ, sẽ đi kèm theo trong một tương lai rất gần sự duy nhất nhân chủng, mà lĩnh vực đại khái sẽ phù hợp với lĩnh vực của sự duy nhất ngôn ngữ nói trên, và có lẽ còn vượt xa hơn nữa ở nhiều chỗ." (31)
Vậy đang khi chờ đợi kết quả của công trình khám phá của các nhà cổ học và nhân chủng học về vấn đề Anh-đô-nê, chúng có thể theo hướng Mansuy đã chỉ để tìm xuất xứ của giống người đó, tức là từ miền Tây, từ Trung Á...
Theo các nhà cổ học, thì sau giống Mê-la-nê với nền văn minh Hòa-bình và giống Anh-đô-nê với nền văn minh Bắc-sơn, đến thời đại những người thuộc giống da đen, giống Úc, giống Mông-cổ. Họ có mặt ở cổ Việt từ thời Bắc-sơn bên cạnh giống Anh-đô-nê, nhưng nền văn minh riêng của họ có lẽ là những lưỡi đá có tay cầm. Họ ở rải rác trên một vùng đất rộng p