← Quay lại trang sách

CHƯƠNG THỨ Hai Tiền-sử Lạc-Việt (bài một) TIỀN-SỬ LẠC-VIỆT

Theo đuổi công việc nhìn vào những thứ người trong quá khứ đã từng sinh sống trên đất Việt-Nam, sau khi gặp giống Mê-la-nê, Anh-đô-nê, da đen v.v... chúng ta chạm trán với một thứ người không còn phải là hoàn toàn thuộc về tiền sử nữa, mà vừa thuộc về tiền sử lại vừa thuộc về lịch sử, đó là người Lạc-Việt. Người Lạc-Việt chắc chắn không còn cổ lỗ như hai thứ người trên. Họ không còn dùng khí cụ trung thạch của nền văn minh Hòa-bình, hay là dùng khí cụ tân thạch của nền văn minh Bắc-sơn, mà đã bước một bước khổng lồ trên đường tiến bộ, vượt từ thời đại thạch khí đến thời đại đồ đồng với những di tích phong phú để lại ở Đông-sơn. Về nền văn minh Đông-sơn, các nhà cổ học đã bàn đến nhiều kể từ khi người ta đào được tại đó những khí cụ bằng đồng, nhất là trống đồng, tương tự như những chiếc trống đồng lớn đã gặp về trước. Ngày nay, có lẽ không còn ai hồ nghi nữa về sự chủ nhân của nền văn minh Đông-sơn là dân Lạc-Việt. Vì thế, sau đây, khi nói đến tiền sử Lạc-Việt, chúng tôi sẽ không bàn đến gì khác ngoài sự trình bày nền văn minh đó. Chúng tôi sẽ vạch ra sự kiện về nền văn minh Đông-sơn, sẽ tìm hiểu ý nghĩa của nó, và rồi sẽ nói đến chủ nhân của nó trong phần gọi là Lịch sử Lạc-Việt. Ở phần nầy, chúng tôi vẫn dùng những ánh sáng đã thâu được nhờ sự nghiên cứu tiền sử, nhưng sẽ đặt trọng tâm vào những sử liệu bút ký có thể gặp được, cố gỡ cho ra ý nghĩa thực sự của những sử liệu đó, mong thấy rõ được sự thật về một giống người đã làm chủ non sông cổ Việt trong một thời kỳ và đã để lại nhiều dây liên lạc với dân Việt-Nam chúng ta.

Tiền sử Lạc-Việt phần nhiều đặt nền tảng trên sự nghiên cứu trống đồng.

Trống đồng đã được lưu ý đến một cách đặc biệt kể từ khi có những cuộc khám phá may mắn năm 1924, tại làng Đông-sơn, Thanh-hóa, một địa điểm thuộc về lĩnh thổ của quận Cửu-chân xưa.

Trước năm đó, người ta đã gặp được đó đây trong vùng Đông-Nam-Á nhiều chiếc trống đồng lớn và đẹp, mang đầy hình vẽ có tính cách khêu gợi óc tò mò của các nhà bác học. Các vị nầy đã cố nhìn kỹ vào các món đồ cổ giá trị đó, đã nghiên cứu cẩn thận, đã đặt cho nó một tên, gán cho nó một tuổi, đoán cho nó một ý nghĩa. Nhưng, làm gì thì làm, cảm tưởng của các vị đó đối với những trống đồng gặp được, vẫn không khác gì như đối với một người lạ mặt đã đánh mất thẻ căn cước, không có gì bảo đảm. Vì vậy, khi những ngôi mộ ở Đông-sơn mở với những mẫu trống đồng nhỏ, có hình ngôi sao, với những lưỡi rìu đồng có hình vẽ, với những lưỡi kiếm hay những mảnh vụn của một tấm gương đời Hán, với những đồng tiền thời Vương-mãng, các trống đồng lớn nói trên trở thành như những người đã tìm ra hộ tịch, và đã nói lên cả một nền văn minh của một giống người thuộc căn bản Anh-đô-nê, giống người nầy vào cuối thời tiền sử đã sống ở vùng sau nầy được gọi là Giao-chỉ, Cửu-chân, và ngày nay còn thấy tản mác ở chỗ núi rừng Việt-Nam, hoặc đi ra các hải đảo lân cận, như ở Indonésie, chẳng hạn.

SỰ KIỆN VỀ NỀN VĂN MINH ĐÔNG-SƠN

1. Việc khám phá di tích

a) ĐÔNG-SƠN

Kể từ năm 1924, một loạt các cuộc khai quật tiền sử đã được thực hiện ở làng Đông-sơn, cách tỉnh lỵ Thanh-hóa chừng bốn cây số theo đường thẳng về phía bắc, ở phía trên cầu Hàm-rồng một ít. Dân làng nầy tụ họp ở dưới chân đồi và có đồng ruộng chạy dài ra mãi đến sống Mã. Từ lâu, trong đám đồng ruộng đó, những khi canh tác, nông dân đã đào gặp những khí cụ bằng đồng và người ta truyền tụng cho nhau là chỗ đó có chôn nhiều đồ cổ. Bởi vậy, vào năm nói trên, viên thương chánh Thanh-hóa, ông Pajot, một cộng tác viên tình nguyện của Trường Viễn-Đông Bác-Cổ đã bắt đầu công việc khai quật. Ông Pajot đã đem ra ánh sáng nhiều đồ vật bằng đồng, như trống đồng, lưỡi kiếm, đồ gốm, v.v... Ông cũng ghi chú cẩn thận các địa điểm đào và những vật gặp được, nhưng những cuộc đào bới như thế vẫn chưa có đủ bảo đảm về phương diện nghiên cứu, nên năm 1935, Trường Viễn-Đông Bác-Cổ chính thức gửi một phái đoàn đến Thanh-hóa để tìm hiểu thêm về vấn đề. Phái đoàn nầy do ông Olov Jansé cầm đầu và ông Nguyễn văn Đồng làm phụ tá. Sau sáu tháng làm việc, các ông đã gặp được chừng vài trăm khí cụ bằng đồng nữa, làm cho số các vật dụng đào được ở Đông-sơn lên đến chừng nghìn chiếc. Các vật dụng đó nằm trong những hầm mộ không phải xây bằng gạch như nhiều ngôi mộ cổ của người Trung quốc gặp được ở Bắc-Việt, mà chỉ là những huyệt đào xuống đất để chôn xác. Vậy, khí cụ của Đông-sơn là đồ vật người ta chôn theo người chết có ý cho những người quá cố đó có mà dùng trong thế giới bên kia. (1)

b) DỤNG CỤ BẰNG ĐỒNG GẶP ĐƯỢC Ở ĐÔNG-SƠN

Kể ra dụng cụ đào được ở các mộ Đông-sơn thuộc về nhiều loại. Ngoài những thứ bằng đồng, người ta còn thấy những thứ bằng sắt, bằng đất sét, bằng đá... Nhưng dụng cụ bằng đồng là nhiều nhất và quan trọng nhất. Tính ra, ông Pajot đã lượm được 489 cái và phái đoàn ông Jansé được 200 cái. Vậy chúng tôi xin nói riêng về loại đồ đồng trước rồi sẽ nói đến các loại khác. Đồ đồng Đông-sơn có thể xếp thành năm hạng:

trống đồng

dụng cụ bằng đồng

bình, chậu bằng đồng

đồ trang sức bằng đồng

tượng người bằng đồng

- Trống đồng

Không kể những miếng vụn, trống đồng xuất xứ từ Đông-sơn tính ra có đến bốn chục chiếc, thường thuộc về cỡ nhỏ. Một chiếc thuộc vào hạng lớn nhất mặt đo được 0,33 m và cao 0,275 m. Mặt của trống nầy có một ngôi sao tám cạnh ở giữa, và chung quanh ngôi sao có hai vành trang trí, một vành bằng vòng tròn có chấm, và vành kia bằng bốn con chim thuộc về loại sếu. Cách trang trí bằng kiều hình học và chim ở đây có vẻ đơn giản và kiểu thức hóa khi so với những hình tương tự ở các trống đồng lớn gặp được về trước, như trống Ngọc-lũ, trống Molié (2). Nhưng nhìn vào, không ai hồ nghi rằng hai đàng đều thuộc về cùng một loại. Một chiếc khác, nhỏ hơn (rộng 0,125 m, 0,098 m), lại được trang trí nhiều hơn: Ở giữa mặt trống, ngôi sao đã bị mờ có chừng 20 hay 22 cạnh, chung quanh lại có nhiều vành vẽ theo kiểu hình học và ở hông cũng thế. Trên mặt trống đó còn có bốn con ếch nhỏ quay lưng vào nhau. Một chiếc đáng chú ý nữa chỉ cao có 0,04 m; chiếc nầy làm như cái đế cho một con vật bốn chân, miệng há to, giống như một con chó đang sủa. Tất cả các trống Đông-sơn đều có một thân hình giống như thân hình của các trống lớn.

- Dụng cụ bằng đồng

Cùng với trống, người ta gặp được lưỡi kiếm đồng rất giống các cổ kiếm Trung quốc đời Hán. Có một chiếc lấy được còn nguyên, chỉ có gẩy ở chỗ tay cầm. Kiếm nầy dài 0,80 m, rộng 0,045 m, mũi hơi cùn, lưỡi sắc cả hai bên. Chỗ tay cầm có hai vành nổi và chỗ khâu có chạm tỉ mỉ. Những khí cụ khác gồm có nhiều lưỡi rìu, lưỡi giáo, nhiều kiểu dao găm, và một mũi tên. Về lưỡi rìu, người ta phân biết được hai thứ, một thứ đều cạnh và một thứ lệch cạnh. Thứ lệch cạnh là thứ đáng lưu ý hơn, vì độ lệch của cạnh rìu có thể biểu lộ tính cách của một bộ lạc sơ cổ: Ở hình vẽ trên các trống đồng lớn (như trống Ngọc-lũ, Hoàng-hạ), người ta thấy được những lưỡi rìu lệch cạnh như thế. Chỗ quan hệ là trên những lưỡi rìu lệch cạnh của Đông-sơn cũng có vẽ hình người in hệt như người được vẽ trên các trống đồng lớn. Lại có những lưỡi rìu lệch cạnh, hai đầu lưỡi cong lên uốn lại thành vòng tròn, và cũng được trang điểm bằng hình người, hình thuyền.

Các lưỡi giáo, lưỡi dao, phần nhiều dài từ 0,25 m đến 0,30 m; cái dài nhất đo được 0,44 m. Dao găm cũng cái dài cái vắn. Con dao dài nhất là 0,25 m, lưỡi và tay cầm liền nhau, chỗ khâu đôi khi có một vành nổi, đôi khi không. Ở cán dao thấy có cái lỗ để xâu dây vào mà đeo. Người ta còn lượm được những miếng đồng nhỏ, không rõ đó là lưỡi rìu hay là lưỡi cày.

Rồi có những miếng đồng hoặc hình vuông, hoặc hình chữ nhật, trên có hình vẽ na ná như hình thấy trên mặt trống đồng, lại có lỗ để đeo. Người ta đoán rằng đó là dấu hiệu của các vị tù trưởng. Sau hết, còn có những miếng đồng hình như những chiếc khánh tí hon, trên mặt có vẽ hình xoắn kép, như kiểu thức thường thấy nơi các trống lớn. Ông Jansé cho đó là những miếng đồng treo đàng sau đèn.

- Chậu, bình

Bình đồng gặp được nhiều kiểu khác nhau và nhiều cở. Có một bình hình bầu dục, dẹp, đặt trên một cái đế hình chữ nhật, giống như các bình đời Hán. Một bình nữa, lớn hơn, giống hình củ kiệu, có quai để cầm, và được trang trí bằng những vành bao quanh. Vành ở cổ có những lưỡi tam giác sòa xuống. Ngoài hai bình vừa nói, người ta có thể xếp các bình khác thành hai loại, một loại hình chậu và một loại hình thùng. Loại trước hình thân nón, miệng sòe ra, có bờ rộng và có quai, đáy cũng có đế ăn rộng ra ngoài mặt đáy để đặt cho vững. Kiểu thức trang trí là vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến. Loại thùng thì hoặc là hình trụ phình ra đôi tí ở phía trên, hoặc là hình chậu nhưng không có bờ sòe. Loại nầy trên miệng cũng có quai, thân cũng được trang trí bằng vòng tròn có chấm với tiếp tuyến hay là bằng những vành sọc dọc. Có cái lớn, cái bé rất khác nhau, có cái chỉ được ba phân. Phải chăng đó là những thùng đựng vật dụng cho chủ nhân của chúng?

- Đồ trang điểm và tiền

Về tiền, người ta lượm được một mớ, gồm các thứ như tiền Bán-lưỡng, tiền Ngũ-châu, và nhất là tiền Vương-mãng. Sự hiện diện của tiền Vương-mãng giữa các di tích Đông-sơn đã giúp một cách hữu hiệu vào việc định tuổi cho nền văn minh đó. Ai cũng biết rằng thời Vương-mãng đã xen vào giữa thời Tây-Hán và nhà Đông-Hán và đã cai trị Trung quốc vào quảng từ năm 9 đến năm 23.

Trong các đồ trang điểm, người ta nhận được những chiếc khung bằng đồng, những chiếc bông tai thuộc nhiều kiểu, những chiếc xuyến trống ruột, đầu mút có thể luồn vào nhau và có lỗ để chốt lại. Ở xuyến đôi khi còn có đeo vào những chiếc đục đạc nhỏ. Đục đạc như thế, người ta cũng thấy được nơi những khóa dây lưng bằng đồng của Đông-sơn. Khóa nầy gồm hai phần đâu lại với nhau, có móc để giữ. Ngoài sự được trang điểm bằng đục đạc như vừa nói, khóa dây lưng còn mang những kiểu thức Đông-sơn như vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến.

Thuộc về loại nầy, còn có những miếng của một tấm gương đồng giống hệt như những tấm gương đời Hán. Gương hình tròn, được trang trí hết sức đẹp, giữa lại có một khung vuông, mỗi cạnh của khung có đề ba chữ Hán viết theo lối chữ triện.

- Tượng người

Đồ đồng Đông-sơn còn gồm một số tượng người linh động và phức tạp. Đáng kể hơn cả là tượng hai người cỏng nhau. Tượng nầy cao chỉ có 0,088 m, nhưng nơi tầm vóc nhỏ bé đó, nó để lộ ra nhiều chi tiết ý nghĩa. Nhìn kỹ vào tượng, chúng ta thấy nó đang diễn lại một cuộc múa hát. Bộ điệu của người cỏng cho biết rằng anh ta đang ở trong thời gian hoạt động mạnh. Chắc chắn là anh ta, cũng như người được cỏng, đều đeo mặt nạ. Người được cỏng thì đang thổi kèn. Đầu anh nầy có tóc dài, gióc lại, đầu mút bắt cong lên thành vòng tròn. Đó là dấu anh ta không thuộc về giống người "tiễn phát" như nhiều giống dân Việt ở vùng Ngũ lĩnh thủa xưa.

Tượng thứ hai là cán của một con dao găm đã bị gẩy lưỡi. Tượng người ở đây dài 0,11 m. Người nầy đang đứng, mình ở trần, chỉ vấn có một chiếc khố tua, hai tay chống nạnh thành hai vòng tròn. Ở tay có một chỗ trướng ra cho biết rằng người đó có đeo xuyến. Hai tai đeo hai chiếc bông hình tròn. Đầu buộc một vòng khăn, tóc gióc, thòng xuống sau lưng cho đến hết vai. Cách thợ hình dung hai con mắt và vú thật là kiểu thức hóa. Hai con mắt là hai vòng tròn có chấm, và hai vú là hai vòng tròn chạm nhau.

Sau hết, một vật mang hình người nữa đó là một chiếc đèn dầu cao 0,105 m. Ở vòi dài của chiếc đèn đó người ta thấy có ba người. Chính cái vòi cũng được hình dung theo kiểu đầu chim mang một cặp mắt lồi. Ngay phía trên mắt là một người đứng, chân trần, tay chấp đằng trước ngực, mặt quay về đàng mút vòi, không thấy rõ nét. Trên đầu, tóc bối ra đằng sau thành một búi to lớn, khăn buộc có hai múi thòng xuống ở lưng. Hai người kia đúng ở quảng giữa người vừa nói và bình đèn, và cũng có một bộ điệu như người đó.

c) CÁC THỨ VẬT DỤNG KHÁC GẶP ĐƯỢC Ở ĐÔNG-SƠN

- Đồ sắt

Đồ sắt gặp được ở Đông-sơn rất ít, chỉ là những mũi giáo, mũi tên, vài lưỡi kiếm, và những mảnh của một lưỡi kiếm khác. Rất khó khảo sát những di tích đó vì đã bị sét ăn nhiều, chỉ còn lưỡi kiếm, dài 0,645 m, rộng 0,035 m, là có thể nhận được, và nó giống như các lưỡi kiếm đời Hán. Một hiện tượng nên chú ý cách riêng là có một lưỡi kiếm bằng sắt mà cán nó bằng đồng, và một mũi sắt nhọn được giữ trong một bao bằng đồng. Như thế nghĩa là bấy giờ sắt là một kim loại rất quý.

- Đồ gốm

Đồ gốm thì nhiều và có nhiều kiểu cũng như nhiều cỡ khác nhau. Rất ít gặp những đồ làm bằng bàn xoay, hoặc có men. Hầu hết đồ gốm Đông-sơn là nắn bằng tay. Người ta thấy những chĩnh cao đến 0,225 m, những vò bề cao 0,18 m, mặt ngoài trang trí bằng kiểu "giả đan". Có lẽ khi đất còn ướt, thợ gốm đã làm đồ đan áp vào để làm cho đồ gốm nhìn như đồ đan. Người ta còn thấy những cái nồi cao lối 0,13 m, những cái chậu miện sòe, để sòe giống như chậu đồng. Lại có những chiếc bình thắp đèn (cao 0,08 m) và những chiếc đĩa đèn. Về cách trang trí thì ngoài cách "giả đan" như đã thấy trên, người ta gặp những kiểu thức đã quen, như vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến, đường xoắn, v.v... Chúng ta có thể ngạc nhiên khi thấy thợ gốm Đông-sơn nghèo nàn về nghệ thuật hơn thợ đồng, và thô lỗ hơn. Có lẽ hai đàng không liên lạc gì với nhau nên không học được tài nghệ của nhau.

- Đồ đá

Đồ đá ở Đông-sơn phải chia ra làm hai loại rất khác nhau. Loại thứ nhất gồm rất nhiều dụng cụ bằng đá rất thô sơ không khác gì nhưng đồ đá thuộc thời Chelléen ở Âu, hay là những lưỡi đá đã được mài sắc để dùng giống như những lưỡi đá ở Bắc-sơn. Sự hiện diện của đồ đá về loại nầy trong các mộ Đông-sơn đã khiến cho nhiều nhà cổ học suy nghĩ. Có kẻ cho rằng đó chỉ là những vật dụng để cúng, nhưng có người lại đoán là dân Đông-sơn trước đó còn ở vào trình độ thạch khí, rồi bỗng một ảnh hưởng ngoại lai lan đến làm cho họ thực hiện được một bước tiến nhanh.

Loại đồ đá thứ hai chính là những vòng đá ngọc rất đẹp dùng để làm bông tai. Ở Đông-sơn đã gặp được nhiều vòng như thế, và nó cho phép chúng ta nghĩ rằng những người được hình dung trong những tượng đồng tả trên với những vòng lớn ở tai đều cũng mang những bông tai vào loại đá ngọc đó.

2) Mức quan trọng của việc khám phá di tích tại Đông-sơn

a) NHỮNG TIẾT LỘ CỦA VIỆC KHÁM PHÁ

Tự nó sự khám phá trạm tiền sử Đông-sơn đã có một tính cách quan trọng. Với những khí cụ, như vừa lượt kể trên đây, khoa cổ học Việt-Nam đã biết thêm được rất nhiều điều. Sau cuộc khám phá Đông-sơn, không còn ai chối cải được rằng, trong thế kỷ thứ nhất, thấy dân Cửu-chân đã có một nền văn minh khá cao. Nền văn minh nầy ở tại sự đã có đồ đồng để dùng, và đồ đồng đó tỏ ra rất tinh xảo. Chẳng những họ đã biết đúc đồng, để làm nhiều thứ dụng cụ, mà họ còn biết tô điểm bằng những hình vẽ linh động, như hình người, hình vật, hoặc bằng những kiểu thức hình học. Nền văn minh đó, còn ở tại sự biết dùng những đồ quý từ Trung quốc đem sang như gương, kiếm, tiền, v.v...

Về phương diện tinh thần, nó cho biết dân Cửu-chân bấy giờ rất trọng người chết, tin ở sự linh hồn bất diệt, và tỏ ra rất hiếu nghĩa. Nhưng các đồ vật đủ thứ gặp được ở trong mộ cũng nêu lên điều nầy là dân đó nghĩ rằng người chết vẫn còn bị vào vòng những nhu cầu vật chất như người còn sống, nên phải chôn vào mộ những dụng cụ cần thiết.

Về phương diện xã hội, người ta nhận thấy dân Cửu-chân chưa biết mặc áo quần, chỉ mới biết đóng khố. Những tượng người bằng đồng kia làm chứng điều đó. Một chỗ nữa cũng nhờ khám phá Đông-sơn mà biết rõ, đó là dân Cửu-chân có tục để tóc dài, gióc lại, bới thành búi tóc.

b) KHÁM PHÁ ĐÔNG-SƠN LÀ CHÌA KHÓA

ĐỂ HIỂU CÁC TRỐNG ĐỒNG LỚN

Nhưng sự quan trọng thật của khám phá Đông-sơn là nó đem "hộ tịch" lại cho các trống đồng lớn. Từ lâu, các trống đồng lớn đã gây nên nhiều nghi vấn. Các nhà bác học thắc mắc không phải chỉ vì sự gặp được trống đồng đó đây trong vùng Đông-Nam-Á, mà chính là vì những hình vẽ rất tinh tế, rất linh động, vừa ở mặt trống, vừa ở hông trống, nó tả nhiều cảnh của đời sống con người. Người ta biết rằng những hình vẽ đó chứa đầy ý nghĩa, nhưng nó càng tỏ ra có ý nghĩa bao nhiêu, các nhà bác học càng nóng lòng bấy nhiêu trong việc tìm cho biết ý nghĩa đó chỉ về ai và về thời nào. Bởi vậy, khi khám phá được các di vật ở Đông-sơn và thấy rõ liên lạc văn hóa giữa dụng cụ gặp được tại đây với các trống đồng lớn, người ta như đã tìm thấy chìa khóa của một nền văn minh mới, nền văn minh mà từ đó người ta mệnh danh là văn minh Đông-sơn. Một khi đã biết được các trống đồng lớn thuộc về ai và ở thời nào rồi, người ta không chỉ còn biết có những điều mà chính sự khám phá các di vật Đông-sơn cho biết, như chúng tôi vừa bàn qua ở đoạn trước đây mà thôi, mà người ta con có thể có một quan niệm rõ ràng hơn nhiều về chính chủ nhân của nền văn minh, về trình độ của nó, và về sự quan trọng của nó đối với lịch sử Việt-Nam. Sau đây, trước khi đi xa hơn, chúng tôi xin lược qua lịch sử của các trống đồng lớn.

3) Các trống đồng lớn khác

Kể từ 1883, nhà cổ học F. Heger đã chú ý đến vấn đề trống đồng. Sau khi đã nghiên cứu 165 chiếc trống, ông đã đem trình bày công việc của ông tại Hà-nội dưới nhan đề Alte Metalltrommeln aus Südost-Asien (3) trong cuộc Hội thảo Quốc tế thứ nhất về các vấn đề Viễn-đông do trường Viễn-đông Bác-cổ tổ chức vào cuối năm 1902. Trong tác phẩm đó, Heger đã xếp các trống đồng làm bốn loại. Đến năm 1918, H. Parmentier lại viết về trống đồng và cũng giữ một cách sắp xếp như Heger, nhưng tổng số trống được nghiên cứu lên đến 188 chiếc. Năm 1932, Parmentier còn quay lại lần nữa với vấn đề trống đồng, và bấy giờ, nếu cộng cả hai chục chiếc trống nhỏ của ông Pajot đào được ở Đông-sơn nữa, tổng số có đến 250 chiếc.

a) XẾP LOẠI

Cứ như cách xếp loại của Heger và Parmentier (4), thì mỗi loại có những đặc điểm như sau:

Loại I. Đây là loại những trống đồng xưa hơn và lớn hơn, và có lẽ loại mẫu cho các loại khác. Về loại nầy, người ta có thể nhận được hai kiểu. Trong kiểu trước, trống chia làm ba phần rõ rệt chắp lại với nhau và gần đều nhau. Phần giữa là một hình trụ đứng. Phần trên thì phình ra rồi thu lại theo kiểu vòng cung để tiếp giáp với mặt trống, đường kính của mặt trống thường rộng hơn đường kính của hình trụ của phần giữa. Ở chỗ nối phần trên với phần giữa, người ta thấy được đường gốc rõ rệt. Phần dưới là một phần có hình thân nón. Kiểu kia, chỉ có điều nầy đáng lưu ý, là chỗ tiếp giáp phần trên với giữa không làm thành một gốc, má trái lại, nó đi theo một đường chuồi giống như hình chữ S cho xuống đến phần dưới. Cả hai kiểu của loài I đều có quai, quai nầy một đầu dính vào phần trên, một đầu dính vào phần giữa. Mặt trống và thân trống được tô điểm nhiều vành trang trí, như sẽ tả tỉ mỉ hơn về sau, nhưng ở đây nên nhớ rằng trong loại một, ở trên mặt, đôi khi có những con ếch đồng ngồi, phần nhiều được sắp trở mặt theo hướng ngược với kim đồng hồ. Các trống về loại nầy thấy được ở vùng Nam-hoa, Bắc-Việt và ngoài hải đảo vùng Indonésie.

Loại II. Mặt trống của loại nầy bao giờ cũng rộng hơn thùng trống, và nhiều vành trang trí hơn mặt trống của loại I, và ngôi sao ở giữa thường ít cạnh hơn. Ở vành trang trí ngoài hết, bao giờ cũng có bốn hoặc sáu con ếch nổi ngồi. Các hình vẽ thường có tính cách kiểu thức hóa hơn, quai trống cũng nhỏ hơn. Loại nầy gặp được ở vùng Nam-hoa và Bắc-Việt như loại trên.

Loại III. Loại nầy giống loại II ở nhiều điểm; như mặt trống rỗng, được trang trí nhiều, trên mặt có ếch. Nhưng nó khác loại trước ở chỗ ếch đây, thường hai ba con, đôi khi bốn con, chồng nhau. Nó còn khác nữa ở chỗ phần hai và phần ba của thùng trống dường như chỉ là một hình trụ, đôi khi dưới đáy chỉ sòe ra tí chút mà thôi. Quai của loại nầy cũng nhỏ. Nơi đường hàn của thùng trống (vì trống thường được hàn lại bởi nhiều miếng), thường có trang trí bằng những hình loài vật nổi như voi chẳng hạn. Loại trống nầy gặp được trong các bộ lạc Karens của dân Miến-điện.

Loại IV. Loại nầy lấy lại hình của loại I, đôi khi có biến chế ít nhiều. Điều riêng biệt của nó là người ta có thể nhận được nhiều yếu tố Trung-hoa xen lẫn vào, ví dụ giữa các cánh của ngôi sao trên mặt trống thường có ghi tên mười hai chi, ghi bằng chữ Hán hay bằng hình loài vật tượng trưng, vì vậy ngôi sao bao giờ cũng chỉ có 12 cạnh. Trống thường kết thành bốn miếng theo chiều đứng. Trên mặt trống không bao giờ có ếch. Loại nầy gặp được ở vùng Vân-nam. (5)

b) LAI LỊCH MỘT SỐ TRỐNG ĐỒNG LỚN

Sau đây xin nói qua về lịch sử một số những trống đồng lớn, có tính cách xưa hơn, và chứa đựng nhiều mách bảo hơn.

- Trước năm 1889, một tù trưởng Mường gặp được ở vùng sông Đáy một cổ trống đẹp. Ông đem dâng cho phó sứ Moulié và ông nầy đem trình bày tại Hội chợ Quốc tế ở Paris. Sau dịp đó, trống bị mất tích. Về trống đó, nay chỉ biết được qua những bài mô tả của F. Heger và hình ảnh do ông ta để lại. Trống đó thường gọi là trống Moulié.

- Năm 1903, Trường Viễn-đông Bác-cổ Hà-nội nhận được một chiếc trống đồng rất đẹp do chùa Ngọc-lũ ở Hà-nam đem đến, vì đó người ta đặt cho nó tên là trống Ngọc-lũ. Không ai biết là trống đó trước thuộc về người nào hay là gặp được ở đâu. Trống nầy đường kính là 0,86 m và chiều cao là 0,63 m.

- Cũng vào đầu thế kỷ 20, nhà thâu thập đồ cổ Gillet ở Hà-nội có một chiếc trống đồng lớn, về sau ông đã đem nhường lại cho viện Bảo-tàng Vienna, nên nay gọi trống đó là trống Vienna.

- Năm 1937, dân làng Hoàng-hạ, thuộc tỉnh Hà-đông, khi đào kênh, đã gặp một trống đồng lớn, chôn sâu dưới đất chừng 1,50 m. Không lâu sau, trống đó đã được quyền sở hữu của Trường Viễn-đông Bác-cổ Hà-nội. Đó là trống Hoàng-hạ, với đường kính 0,84 m và chiều cao 0,515 m. (6)

Đó là những trống thuộc về loại I danh tiếng phát tích từ đất Việt-Nam. Đất Lào cũng cung cấp một số trống đồng lớn về loại đó. Chúng ta có thể kể trống Nelson và trống Bosc. Về trống Nelson không rõ nó xuất xứ từ đâu nhưng nó thuộc về ông Nelson (trước đây ở Paksé) nên gọi thế. Trống nầy có lẽ là trống lớn nhất, đường kính đến 1,10 m và cao 0,63 m. Trống Bosc, cũng gọi thế vì đã do ông Thống sứ Pháp ở Lào tên là Bosc giao cho Trường Viễn-đông Bác-cổ. Trống nầy gặp được trong một chỗ ruộng ở Oubon, đường kính là 0,865 m và cao 0,58 m. Những trống khác gặp được ở Lào đại khái giống như hai trống vừa nói.

Cổ-Viện Nam-vang có chứa một số trống đồng tìm được ngay tại Cambodge. Một chiếc chỉ còn có mặt trên mà thôi đã lấy được ở làng Thnom Mong Rusei, thuộc tỉnh Battambang. Một chiếc trống khác lấy được ở làng Tos Tak, thuộc tỉnh Kompon Chnang. Cả hai chiếc đều thuộc về loại I. Chiếc trống Battambang đường kính là 0,64 m, ngôi sao có 12 cạnh, còn chiếc Kompong Chnang đường kính 0,67 m và chiều cao 0,35 m. Chiếc nầy được trang trí mỹ thuật hơn chiếc kia, nhưng ngôi sao có 10 cạnh.

Cổ-Viện Vọng-các cũng có chừng mười chiếc trống đồng, trong số đó có năm chiếc thuộc về loại I. Trong năm chiếc nầy, một chiếc gặp được ở Oubon, và bốn chiếc kia là do trạm tiền sử Tung Yang. Một điều đáng chú ý là trên chiếc trống thuộc loại I, đặt thứ hai, kể từ ngoài đi vào, người ta thấy bốn con ốc bươu thay vì ếch. Một chiếc khác, thuộc loại II, có một đoàn ba con voi đang đi trên đi xuống theo đường hàn, con trên lớn rồi đến hai con kia nhỏ xuống dần dần. Ở Viện Bảo-tàng Huế cũng có một trống đồng có voi giống như thế.

Tại Indonésie trống đồng đã được biết lâu năm rồi. Năm 1861, người ta báo cáo cho chính phủ biết là gặp được một trống ở đảo Saleier, ở về phía tây nam Célèbes. Sau đó lần lượt các đảo Luang, Rotti, Letti, và nhiều chỗ nữa đều thấy có. Vào năm 1881, số trống đã nhiều và người ta đã xếp lại dưới nhãn hiệu là "trống nồi" (Kettletrommeln). Các nhà cổ học như A. B. Meyner, H. P. Foy va Franz Heger đã dùng để nghiên cứu.

4) Hình vẽ trên trống đồng

Nếu các ngôi mộ Đông-sơn và các nơi gặp được trống đồng là cần phải chú ý, thì người ta càng phải quan tâm hơn biết bao vào những hình vẽ trên trống, vì chính những hình vẽ đó đã nói to lên giá trị của nền văn minh Đông-sơn. Cũng vì hiểu rõ vai trò của các hình vẽ như vậy, nên khi nghiên cứu về trống đồng, các ông Franz Heger, Henri Parmentier, Victor Goloubew (7) đã tỉ mỉ tả các hình vẽ. Ở đây, trước khi, và để có thể, làm sáng tỏ ý nghĩa của nền văn minh Đông-sơn, chúng tôi xin lần lượt nói đến các hình vẽ thấy được trên mặt và ở thân các trống đồng lớn.

a) HÌNH VẼ TRÊN MẶT TRỐNG ĐỒNG

Mặt trống đồng là chỗ được người thợ (Đông-sơn) tô điểm một cách đặc biệt nhất. Nếu bắt đầu từ trung tâm trước rồi dần dần ra đến bờ, thì đầu hết, ngay ở chính giữa mặt trống, chúng ta thấy ngự trị một ngôi sao nhiều cạnh, rồi đến những vành trang trí, hoặc bằng những kiểu thức hình học, hoặc bằng hình người, hình cầm thú. Ở vành ngoài hết, như đã nói trên, đôi khi lại còn có những con vật nổi gắn vào. Nhìn kỹ mặt trống, người ta nhận được cả một công trình sáng tác tinh vi đi đôi với một nghệ thuật lão luyện. Chẳng những thế, những kiểu thức trang trí kia, vừa có thể cho biết trình độ tiến hóa của nền văn minh Đông-sơn, vừa nêu lên những dây liên lạc có thể có với các nền văn minh khác. Ngoài ra, chi tiết rất hứng thú và đầy ý nghĩa về cách sinh hoạt xã hội và tôn giáo của người thời bấy giờ, mở đường cho các nhà bác học khảo sát phong tục và đối chiếu dân tộc học.

Dưới đây, khi tả các hình vẽ trên mặt trống, chúng tôi xin lấy trống Ngọc-lũ làm căn bản (8), rồi thêm vào, hoặc so sánh với những nét đặc biệt gặp được nơi các trống danh tiếng khác. Tổng quát mà nói, thì trống Ngọc-lũ có một ngôi sao ở giữa và năm vành trang trí. Vành thứ nhất và thứ năm là những vành được trang trí hoàn toàn bằng kiểu thức hình học, còn các vành hai, ba, bốn, lại gồm hình người (ngồi, đứng, làm việc, đủ cách) và hình cầm thú. Các trống Hoàng-hạ, Bosc, đều có năm vành trang trí. Trống Đông-sơn, có lẽ vì nhỏ, chỉ có ba vành mà thôi, hai vành hoàn toàn kiểu thức hình học và một vành là bốn con chim được kiểu thức hóa. Chúng tôi xin trình bày lần lượt.

- Ngôi sao

Trên mặt trống Ngọc-lũ, ngôi sao ở giữa có 14 cạnh. Trống Hoàng-hạ có 16 cạnh, các trống Nelson, Bosc, Vienna, Battambang, có 12 cạnh. Trống Đông-sơn, thì có chiếc chỉ có 8 cạnh, mà có chiếc lại có đến 20 hay 22 cạnh. Đầu mút các cánh của ngôi sao, có chạy qua một vòng tròn, khiến cho quảng giữa các cạnh thành những hình tam giác. Những tam giác nầy được trang trí bằng một kiểu thức mà nhìn qua người ta tưởng là những miếng lông công, vì hai bên có đường giống như thớ lông và ở giữa có con mắt. Các trống đồng lớn đều có kiểu thức đó, nhưng ở trống Đông-sơn lại không có con mắt ở giữa, bởi đó, có thể đoán rằng, trang trí như vậy chỉ là để hình dung những tia sáng của ngôi sao tỏa ra.

- Vành trang trí thứ nhất

Vành nầy gồm ba kiểu thức chính ở giữa, rồi hai kiểu thức phụ lặp lại ở hai bên. Kiểu thức giữa là những chữ S gẫy, có đường viền, đặt nói tiếp nhau. Tiếp hai bên kiểu đó, đến kiểu vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến nối chéo hai vòng tròn lại rồi đến kiểu chấm, chấm, giữa hai đường dài. Trên trống Đông-sơn, vành nhất nầy chỉ có kiểu vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến chéo, nhưng tiếp tuyền không phải đơn, mà lại kép.

- Vành hai

Trong các vành trang trí, thì vành hai sắp tả đây được kể là quan trọng hơn cả. Vành nầy chẳng những rộng, mà nó gồm tất cả năm cảnh xã hội rất linh động, lặp lại hai lần, làm cho mỗi lần như vậy là chiếm phân nửa vòng tròn. Vì những cảnh sinh hoạt của nó, nên chúng tôi gọi nửa dưới của vành là nửa A và nửa trên là nửa B, cùng mô tả bắt đầu từ cảnh có đoàn người ra đi, dùng làm cảnh một, rồi sẽ đến cảnh sau theo chiều ngược với kim đồng hồ.

Ở cảnh một, nửa A có sáu người, nửa B có bảy. Cả đoàn người đó bận y phục giống nhau, chỉ trừ người thứ nhất cả nửa B, vì người nầy đầu không đội mũ. Các người khác hình như vấn khố bằng lông chim, đội mũ lông chim. Khố của họ gồm hai phần, một phần che đàng trước, một phần che đàng sau, và cả hai phần đang bay lên theo điệu đi hăng hái của họ. Mũ họ là những lông chim dài kết lại, một phần đứng thẳng, một phần sòe về đàng sau. Trong đoàn họ, có kẻ thổi kèn, thứ kèn dài giống như kèn người Mọi, những kẻ khác thì cầm một cái gì nơi tay, có lẽ là khí giới của họ. Những người nầy, như đã nhắc đến trên, rất giống những người thấy được trên lưỡi rìu lệch cạnh của Đông-sơn. Ở nửa A, người thứ sáu, tức là người dẫn đoàn, đang cầm cái gì nơi tay giống như lá cờ dài, mà phía dưới cán là một mũi nhọn có chìa như mũi lao. Có kẻ cho đó là cái thuẫn. Ở trống Hoàng-hạ, sáu người thì năm cầm một cái giống như thế.

Cảnh hai là một ngôi nhà sàn trang trí bằng một thứ gì giống lông chim. Nóc nhà hai đầu quịt xuống rồi có hai cột trụ nhô lên. Trong nhà ở nửa A, thấy rõ hình một người hai tay đang đánh những cái chiêng treo hai bên. Ở nửa B, con người đó hình như đang cầm chiêng mà đánh. Chân của hai cột trụ nhà sàn được hình dung theo kiểu chân một người đứng sòe ra. Ở trống Hoàng-hạ, trong vòng sinh hoạt nầy, hai ngôi nhà của hai nửa vành, thì một ngôi nhà giống như của trống Ngọc-lũ, còn một ngôi lại có hai con chim đậu trên nóc, quay mặt vào nhau.

Cảnh ba gồm có ba người, tất cả đều không có mũ lông. Người thứ nhất cầm một cái gì giống như cái máy bắn đá. Trên đầu người đó có một con chim đầu to mõ quặp đang bay. Hai người thì đang giả gạo. Ở y phục của những người nầy xem ra không giống nhau. Người bắn chim và người già gạo gần đó xem ra mặc một thứ khố gồm hai phần như những người của cảnh một, nhưng vắn hơn. Dầu vậy hai phần khố cũng bay sòe lên. Còn người kia cũng giả gạo không khác gì, vậy mà không thấy gì sòe lên cả? Hay là đó chỉ là người còn trẻ chưa mặc quần áo chăng? Ở nửa A, trong hai người giả gạo, con người bận khố lại để tóc dài. Họ đang cầm chày đâm vào cối. Chày của họ, đầu trên có trang điểm bằng lông chim trong giống như lá cờ. Cối của họ không khác gì hình của những chiếc chậu bờ sòe, đế sòe, gặp được ở Đông-sơn. Ở trống Hoàng-hạ, cảnh nầy chỉ có hai người, cả hai đều để tóc dài, đều bận khố, đều cầm chày đâm vào cối, nhưng chày họ không có buộc lông chim. Trái lại, trên đầu họ có hai con chim đang bay, chim nầy cũng thuộc về một thứ như con ở trên đầu người bắn đá ở trống Ngọc-lũ. Một điều lạ nữa là gần dưới chân một người có một vật gì giống hình con gà.

Cảnh bốn là một nhà kiểu khác hẳn với ngôi nhà ở cảnh hai. Ở đây mái nhà cong lên thành hai đầu chim. Trên nóc nhà, ở nửa A, có hai con chim, một con to, một con nhỏ, đầu quay đuôi vào nhau, đầu nhìn vào hai mút nóc nhà. Ở nửa B, chỉ có một con chim đậu quay đầu về phía trước. Mái nhà có hai đường hồi có tua rủ xuống, hình như là mái tranh, hay là được tô điểm bằng lông chim. Giữa nhà, trên sàn, thấy hai người ngồi đối diện nhau (ở nửa A không được rõ, nửa B rõ hơn), cầm một vật gì không nhận được. Hai bên hồi, dưới đất, thì một bên có một vật gì giống cái cối hoặc cái trống, bên kia là một người ngồi. Ở trống Hoàng-hạ, một bên hồi nhà, không phải chỉ có một người ngồi như vừa tả, mà còn đánh vào một vật gì đặt trên một cái trụ, có lẽ là một chiếc trống đồng. Ở hình thuyền, trên thân trống, ngay ở giữa thuyền, cũng nhận thấy có một cột trụ và trên đó có một vật gì giống như trong trường hợp đang tả tại đây.

Cảnh năm là một cái sân, có thể đoán được là sàn của một ngôi nhà sàn vừa tả. Ở nửa A, trên sàn có một người đứng và ba người ngồi. Người đứng đang cầm một que dài chống xuống sàn, bộ điệu giống như một trong hai người giả gạo ở cảnh ba, người ngồi cũng cầm que dài chống xuống sàn như vậy. Ở nửa B, cả bốn người đều ngồi cầm que chống xuống sàn. Dưới sàn có bốn vật gì hình giống trống đồng được kê trên những cái trụ cao. Trên những vật đó có những chiếc khăn phủ mãi đến đất. Có người, như Goloubew, cho đó thực sự là những chiếc trống đồng, lại có kẻ khác, như Parmentier, nghĩ rằng đó chỉ là chiếc bồ đan để trữ lúa. Ở trống Hoàng-hạ, cả bốn người cùng đều ngồi, đều cầm que dài chống xuống sàn. Có điều nầy nên chú ý là ở đây cả bốn người đều có tóc dài, còn ở trống Ngọc-lũ. Ở nửa A cũng như ở nửa B, chỉ có một người để tóc dài mà thôi. Lại ở trống Hoàng-hạ, những vật đặt dưới sàn không có trụ kê, và không có khăn phủ.

Cảnh sinh hoạt nầy chẳng những thấy được ở các trống Ngọc-lũ và trống Hoàng-hạ, mà còn thấy ở trống Vienna, trống Moulié. Một điều nên nhớ là thứ tự các cảnh xem ra không cần thiết, và các cảnh cũng có trống không đủ cả năm. Ở trống Moulié, chẳng hạn, hai nửa của vành sinh hoạt đã xếp đặt không giống nhau rồi. Dưới đây, xin kể thứ tự các cảnh ở bốn trống vừa nói.

Ngọc Lũ

Nữa A và B

1, 2, 3 __ 4,5 ___

Hoàng Hạ

Cả hai nữa

1, 2, 3 __ 4, 5 __

Vienna

Cả hai nữa

1, 2, __ 1, 4, 5 __

Moulié

Nữa một - Nữa ha

1, 2 __ 1, 5, 4 ___ 1, 2 __ 1, 5, 4, 3

Theo đó, chúng ta còn có thể ghi nhận rằng trống Moulié không phải chỉ có xáo trộn thứ tự ở hai nửa của vành văn hóa mà thôi, mà sổ cách cảnh ở hai nửa cũng không giống nhau.

Một ghi nhận khác: Vành sinh hoạt như vừa tả trên đây, không có trong trống Bosc. Thay vì những cảnh người đi có vẽ xông pha, thay vì nhà sàn, v.v... trên trống Bosc, ở vành trang trí thứ hai, người ta thấy 10 con vật hình thù giống như 10 con thằn lằn, với bốn chân rõ rệt, với đuôi dài, những con lớn, con vừa, con bé khác nhau. Ở đây 10 con vật đó được vẽ theo kiểu nhìn từ trên xuống, còn ở hông trống, chắc chắn là những con như vậy, mà được vẽ theo kiểu nhìn ngang. Phải chăng đó là những con cá sấu, nó có thể hóa thành rồng sau nầy? Cũng không nên quên là 10 con vật lạ lùng đó, nó không khác gì với những con gặp được ở lưỡi rìu lệch cạnh của Đông-sơn, trên vành hai, cứ hai con quay đầu lại với nhau, và như thế làm thành năm cặp.

- Vành ba

Vành ba được phân biệt ra khỏi vành sinh hoạt bởi một đường trang trí vẽ theo kiểu vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến chéo. Giữa vành ba và vành bốn cũng một đường trang trí kiểu đó. Vành ba nầy được trang trí bằng hình hai thứ loài vật là chim và hươu. Nếu so với vành trước mà đếm, thì ngay ở dưới chỗ khi sự nửa B của vành sinh hoạt mà đi, người ta sẽ đếm được sáu con chim, rồi đến mười con hươu, rồi lại tám con chim, rồi lại mười con hươu. Chim đây cũng thuộc về một giống như thứ đã thấy ở vành hai, được hình dung đang bay về cùng một chiều như chiều của vành hai. Hươu cũng tiến theo hướng đó, tất cả đều có sừng dài và đều có vẻ hăng hái. Ở trống Hoàng-hạ, ở trống Bosc, vành này được trang trí theo kiểu hình học, hai trống cùng dùng một kiểu, nhưng ở trống Bosc hình lớn hơn ở trống Hoàng-hạ.

- Vành bốn

Được vẽ bằng toàn chim quay một hướng như ở vành trên, vành bốn nầy không phải là không có những chỗ đặc sắc của nó. Trước hết, chim đây có thứ bay thứ đậu. Thứ bay, tức là thứ lớn, gồm tất cả là 18 con. Thứ nầy không phải cùng một giống như chim ở vành hai hay vành ba. Ở hai vành trước, chim thuộc về loại mỏ to mà quặp, còn ở đây mỏ lại dài và chân cũng dài, giống như loại sếu. Chim ở trên mặt trống Đông-sơn là thuộc loại đó. Thứ chim đậu, rõ ràng là những chim con, cũng gồm tất cả mười tám con, đứng xen vào giữa chim lớn. Thứ đậu thấy được là thuộc về hai loại, một loại mỏ quặp, tất cả có ba con, chắc chắn là cùng một loại như các chim ở vành hai và vành ba, và một loại mỏ thẳng, tức là mười lăm con còn lại, là những chim con của loại chim bay của vành bốn. Ở trống Hoàng-hạ, vành nầy tất cả có 14 con chim bay thuộc về cùng một loại chân cao, mỏ dài như chim của trống Ngọc-lũ, nhưng không có chim con. Ở trống Bosc, trong vành bốn chim cũng bay, tất cả đến ba chục con. Nhưng nếu những con chim bay ở các trống Ngọc-lũ và Hoàng-hạ đã kiểu thức hóa quá nhiều, thì chim ở trống Bosc vẫn còn giữ được vẻ tự nhiên của nó. Đây, không còn ai hồ nghi rằng bầy chim bay vòng quanh đó là một bầy sếu hay là cò.

- Vành năm

Đây là một vòng trang trí hoàn toàn bằng kiểu thức hình học gồm ba kiểu lặp lại đối nhau. Vòng trong hết và ngoài hết của vành nầy được kết bằng những chấm kế tiếp nhau. Vòng trong đó là thuộc kiểu răng cưa có chấm giữa tam giác phía ngoài. Vòng giữa thì làm bằng những vòng tròn (không có chấm giữa) và có tiếp tuyến chéo. Vành bốn, trống Hoàng-hạ giống như trống Ngọc-lũ, chỉ khác có một chỗ, là ở vòng giữa, giữa vòng tròn, có thêm cái chấm.

b) HÌNH VẼ TRÊN THÂN TRỐNG

Thân trống cũng có những hình vẽ đáng chú ý không kém gì hình vẽ ở mặt trống. Nếu ngôi sao giữa mặt trống, hay vành sinh hoạt chứa chất nhiều ý nghĩa, thì những hình thuyền mà người thợ "Đông-sơn" đã dùng để tô điểm phần trên của thùng trống cũng có thể cho nhà cổ học biết rất nhiều điều.

Thật thế, phần trên của thùng trống, ở chỗ vòm ra, người ta thấy được sáu cảnh thuyền có người điều khiển và được trang điểm lộng lẫy. Giữa những cảnh thuyền như thế lại còn thấy có hình chim lớn, hoặc là hươu, theo như những mẫu đã gặp ở mặt trống hoặc là cá nữa. Chẳng những trống Ngọc-lũ, mà các trống Hoàng-hạ, Moulié, Nelson, Bosc, đều có vành thuyền nầy. Thuyền của trống Moulié có lẽ đã được kiểu thức hóa nhất và của trống Ngọc-lũ còn giữ được vẻ tự nhiên hơn hết. Sau đây xin tả một cảnh thuyền của trống Ngọc-lũ.

Thuyền dài, hai đầu cong lên. Đầu mũi thuyền được trang điểm phức tạp, nhìn chúng giống như đầu chim. Đàng lái lại được trang điểm như đuôi chim. Đàng mũi cũng như đàng lái, người ta nhận thấy có vòng tròn kép ở giữa có chấm. Đôi khi, hình tròn kép có chấm như vậy còn thấy ở cột trụ giữa thuyền, nhưng đây không phải bao giờ cũng thế, vì ở cột trụ của nhiều cảnh thuyền, thay vì vòng tròn kép, có thể gặp những vòng bầu dục kép. Nhưng về vòng tròn đơn có chấm ở giữa, người ta thấy được nhan nhãn, nào là trên mả chiến sĩ, đôi khi một mũ hai ba cái, nào là trên cột trụ của cái sàn, nào là đầu mút khí giới. Những vòng tròn có chấm đó, điểm thêm một tua lông chim, phất phới trên thuyền theo chiều gió, la liệt chẳng khác gì cờ xí của một đám rước.

Thuyền gần lái, có một cái sàn, và quảng giữa sàn nầy với mũi thuyền, có một cột trụ. Sàn nhìn ngang thấy hai cột cao, có điểm vòng tròn (có chấm) và một tua lông như vừa nói. Sàn làm bằng một lớp dày ngoài bờ có trang trí bằng vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến chéo. Dưới sàn người ta đặt một chiếc trống và một cái bình, đôi thuyền ở đây chỉ thấy một chiếc trống mà thôi. Trên sàn có một chiến sĩ cầm cung quay mặt về phía lái. Ở trống Hoàng-hạ, người cầm cung nầy còn để sẵn một mũi tên to tướng trên cung và lưng còn đeo rõ một chiếc thuẩn trên đó có trang điểm bằng vòng tròn có chấm và có tiếp tuyến chéo. Cũng nên lưu ý nữa rằng hướng bắn của các chiến sĩ đó không nhất định, khi thì bắn về đàng lái, nhưng cũng có khi bắn về đàng mũi, và chiến sĩ không có đội mũ lông như các đồng bạn ở trong thuyền hay như ở vành sinh hoạt của mặt trống.

Cột trụ gồm hai cọc ngang ngực, trên đó có đặt một vật hình lục lăng, ở giữa hình lục lăng lại có vẽ vòng tròn có chấm hoặc là vòng bầu dục kép không có chấm. Trên vật lục lăng, có hai cái lông lớn và một cái cần chỏng lên trời, cần nầy đầu mút lại có hình tròn có chấm và có một tua lông. Ở trống Hoàng-hạ, không thấy hai cái lông lớn mà chỉ thấy có cái cần. Trụ nầy có kẻ cho là cột buồm, nhưng như thế xem ra thất lý, vì cột buồm sao lại có vật đa giác kia đặt ở trên và hơn nữa có một người đang cầm đùi đánh vào vật đó. Đàng khác, như đã ghi nhận trên, ở vỉa hè nơi ngôi nhà của cảnh bốn của vành sinh hoạt, chúng ta đã thấy một cột trụ trên đó có đặt một vật tương tự, rõ nhất là ở trống Hoàng-hạ, và cũng có người đang đánh vào. Mà vỉa hè nầy, hỏi ai có thể nghĩ rằng đó là cột buồm? Vậy có lẽ đó cũng chỉ là một cảnh đánh trống đồng.

Về người trên thuyền, nếu kể cả chiến sĩ trên sàn nữa, thì tất cả có khi là bốn người. Nhưng sự thực số đó không nhất định. Ở trống Ngọc-lũ có thuyền chở đến sáu người, trống Hoàng-hạ thì khi năm người, khi nhiều hơn, còn trống Nelson chẳng hạn lại đếm được 13 người kia. Dầu ít, dầu nhiều, những người trên các thuyền của hông trống đồng đều là chiến sĩ tỏ ra đang hăng hái xông pha, hầu như ai nấy cũng đều đảm nhiệm một công việc tích cực.

Người cầm lái, khi đứng, khi ngồi, đang nắm chặt hướng đi của chiếc thuyền. Trong thuyền, trường hợp của hình 13 ông đang đội một chiếc mũ đặc biệt, trên đó đếm được năm vòng tròn có chấm. Cây chèo của ông đang cong lại, dường như chiếc thuyền đang đi mạnh. Đầu mút chèo cũng có điểm một tua lông, trong đó có vòng tròn có chấm. Cách trang điểm chèo lái như vậy chỉ thấy ở trống Ngọc-lũ, chứ không có ở các trống khác. Giữa người lái và cái sàn, chúng ta nhận được một con vật tương tự như con chó. Vật đó chỉ có trong một cảnh thuyền của trống Ngọc-lũ.

Cũng ở cảnh vừa nói giữa sàn và cột trụ, một chiến sĩ đang đứng với hai tay bận rộn. Tay trái của ông đang đánh vào cái vật đa giác đặt trên trụ (cái trống), còn tay mặt đang cầm một vật gì, chừng như một thứ khí giới lớn. Mũ ông đội cũng điểm một tua lông trong có hai cái lông to và một cái cần đầu mút có lông và có vòng tròn có chấm.

Mình ông ở trần, có đóng khố đại lễ. Nhưng khoảng giữa sàn và cột trụ, đôi khi thấy có hai người. Trong trường hợp nầy, một người có tất cả các điệu bộ của con người vừa được tả, còn người kia, ở về phía sàn, đầu đội mũ giống như người trước, tay trái cầm một cái gì được trang điểm bằng lông và đầu mút có hình trái ú, có chấm ở giữa, chắc là cái thuẩn, tay phải thì cầm một cái lao. Ở trống Hoàng-hạ, trong quảng nầy, khi thì thấy một người, khi thì thấy hai. Những người đó có khi đứng, có khi ngồi, không nhất định.

Quảng giữa cột trụ và mũi thuyền, cũng có một hoặc hai người. Người ở gần mũi, thường là ngồi, đầu đội mũ lông chiến sĩ, tay cầm một chiếc rìu lệch cạnh giơ lưỡi ra đàng trước. Người kia, nếu có, thì tay trái cầm một cái gì giống như cái thuẩn, nhưng phía dưới lại có mũi nhọn giống như mũi lao, tay phải cầm cái gì không rõ. Ở trống Hoàng-hạ, cả hai người đều đứng, người ở phía mũi lại có bộ điệu và cầm đồ giống như người đứng vừa tả của trống Ngọc-lũ, còn người ở gần cột trụ lại một tay cầm một cái lao giống như của người kia, nhưng đầu mút trên lại điểm bằng vòng tròn có chấm mà không có tua lông, tay kia cầm một cái gì giống như khí giới. Nên để ý điều nầy, là ở đàng mũi thuyền, thấy có lòi xuống một chiếc chèo mũi, nhưng không thấy ai điều khiển, có lẽ chiến sĩ ngồi gần đó đang điều khiển bằng chân.

Như đã nói qua ở trên, giữa hai cảnh thuyền, nhất là ở trống Bosc, hay có hình hươu, cá, chim. Sự cá đi đôi với thuyền, kể ra không lạ gì. Về chim cũng có thể hiểu được, vì chim đây là loài cò, loại sếu, thường tìm cá ăn ở dưới nước. Nhưng sao lại có hươu ở đây? Sự hiện diện của giữa hai cảnh thuyền cho phép chúng ta nghĩ rằng, những hình vẽ nầy có lẽ chỉ là để tô điểm những chỗ trống các cảnh thuyền còn chừa lại mà thôi. Chỉ nên chú ý đến hình hươu cách riêng, vì ở đây hươu xem ra tự nhiên hơn những con thấy được ở vành ba trên mặt trống Ngọc-lũ.

Ở phần giữa của thùng trống cũng có hình vẽ nhưng dầu là hình người, dầu là kiểu thức hình học, tất cả chỉ là lặp lại những gì đã gặp được ở mặt trống hay ở hình thuyền, nên thiết tưởng không cần phải tả thêm.

5) Kết luận về sự kiện của nền văn minh Đông-sơn

Đây mới chỉ là sự kiện về nền văn minh Đông-sơn, nghĩa là những gì cụ thể người ta đã gặp được hay là đã thấy được về những di tích khai quật ngay ở trạm Đông-sơn, hoặc là những di tích thuộc về cùng một nền văn minh đó. Nói rằng đây chỉ mới là sự kiện, nghĩa là nêu lên rằng đây chưa có giải thích ý nghĩa, mà di tích thường quan trọng ở chỗ giải thích. Dầu vậy, qua các sự kiện chúng tôi vừa mô tả, chúng ta ai cũng đã thấy được tầm kiến thức cổ học những sự kiện như thế có thể đem lại cho. Không cần phải tìm hiểu sâu xa, ngay bây giờ chúng ta cũng đã nhận được rằng chủ nhân của văn minh Đông-sơn đã có một trình độ nghệ thuật điêu luyện và rộng rãi. Họ đã hình dung được con thuyền đang bơi nhanh, con người đang hoạt động mạnh, chim đang bay, cá đang lội, và hươu với bộ sừng dài, và cá sấu khi nằm khi đi, và cả chó nữa. Và những nét vẽ tế nhị đó, không phải là chỉ vẽ vào giấy, mà diễn ra trên mặt đồng. Rồi những kiểu thức hình học kia cũng không phải là không mỹ thuật. Người thợ Đông-sơn đã biết được nhiều mẫu để trang trí đồ vật của họ. Hơn nữa, họ còn đi đến chỗ kiểu thức hóa, và nhiều khi họ đi rất xa, những cảnh hoạt động của người và vật họ thấy được chung quanh họ. Sự kiện nầy để lộ ra một sự tiến bộ nghệ thuật trải qua một thời gian khá dài.

Nhưng đồng thời, chúng ta cũng không khỏi ghi nhận rằng, nếu người Đông-sơn (chỉ về cả nền văn minh Đông-sơn) đã cao bay xa chạy về mặt nghệ thuật, họ có thể còn rất bán khai về mặt phong hóa, họ còn ở truồng, họ chỉ mới biết đóng khố, chỉ có cái mũ của họ là vĩ đại. Phải chăng họ là điển hình cho hiện tượng những dân "mình ở lổ cổ đeo hoa"? Hiện tượng đó, thiết tưởng không lạ gì đối với một giống người như người thuộc văn minh Đông-sơn, vì ngày nay vẫn còn gặp được những thứ người như thế.

Những kiến thức tổng quát nầy sẽ được đào sâu trong phần sau về ý nghĩa của văn minh Đông-sơn.

CHÚ THÍCH

1. Georges Coedes, "L'archéologie au Vietnam d'après les travaux de l'École Française d'Extrême-Orient", France-Asie, 149-150, tháng 10-11, 1958, trang 316-319.

2. Các trống đồng lớn sẽ được nói tới rõ hơn trong một đoạn sau.

3. Frank Heger, "Alte Metalltrommeln aus Südost-Asien", Leipzig, K. W. Hiersemann, 1902.

4. Henri Parmentier, "Anciens Tambours de Bronze", BEFEO, XVIII, trang 1-28.

"Notes d'Archéologie Indochinoise, IX. Nouveaux Tambours de Bronze", BEFEO, XXXII, trang 171-182.

5. Paul Lévy, "À la mémoire de Victor Goloubew: Origine de la Forme des Tambours de Bronze du type I", Dân Việt-Nam (Le Peuple Vietnamien), số 2, tháng 12-1948, trang 17-23.

6. Victor Goloubew, "Le Tambour métallique de Hoàng- hạ", BEFEO, XL, trang 383-396.

7. Victor Goloubew, "L'Âge du Bronze au Tonkin et dans le Nord-Annam", BEFEO, XXIX, trang 1-46.

8. Trang nầy đã được H. Parmentier tả lại tỉ mỉ trong bài "Anciens Tambours de Bronze".

9. Nguyễn Phương, "Tiền-sử và lịch sử Lạc-Việt" Đại-học, số 38, tháng 4, 1964, trang 255-290.