CHƯƠNG THỨ SÁU (tt) III. DÂN VIỆT NAM LÀ NGƯỜI TRUNG QUỐC-DI CƯ SANG TRONG THỜI BẮC THUỘC--
1) Việc tìm nguồn gốc dân tộc
Trong việc tìm nguồn gốc dân tộc, phải tùy trường hợp mà áp dụng biện pháp. Một dân tộc, như dân tộc Hoa kỳ chẳng hạn, đã khai sinh giữa ánh sáng của lịch sử, nên tất cả công việc tìm tòi đều phải dựa vào sử liệu. Đối với những dân tộc bắt nguồn xa hơn trong quá khứ, như dân tộc Trung Hoa, hay dân tộc Việt Nam, thời khai sinh nằm mãi trong cõi thâm u của quá khứ, thì việc khảo sát tất nhiên phải gặp nhiều khó khăn phức tạp. Chính vì tính cách phức tạp của sự khó khăn đó mà ít người có đủ kiên nhẫn để giải gỡ dần dần, và họ đành vui lòng chấp nhận những mẫu chuyện bịa đặt sẵn có, hay những kết luận vội vàng.
Đi vào vấn đề nguồn gốc dân tộc, vẫn có một vài sự trạng phải dùng để đặt làm nền tảng. Trước hết, trong tình trạng hiện thời của các nước văn minh, không một dân tộc nào là nói được nguyên thuần về mặt nhân chủng. Dân nào cũng mang dấu vết hỗn hợp, không nhiều thì ít. Vì vậy, khi tìm nguồn gốc một dân tộc, người ta không phải là không được phép tìm do lai của tất cả các thành phần lớn và bé của sự hỗn hợp, nhưng khi nói nguồn gốc của một dân tộc nào đó, người ta phải hiểu là nguyên bản của thành phần chính của nó, thành phần lớn nhất, gồm đại đa số dân chúng. Chính thành phần lớn nhất nầy làm cho một dân tộc khác với dân tộc khác, về phương diện nhân chủng.
Nhưng khi phân biệt dân tộc, nguyên tắc không phải chỉ có nhân chủng. Muốn thành một dân tộc riêng, một giống người nào đó còn phải sinh sống trong một nơi nào đó, có những mẫu sống chung nào đó, như về mặt chính trị, văn hóa, phong tục, nói cách khác, là phải sinh sống chung trong một quốc gia. Vì vậy, nguồn gốc một dân tộc, còn là lai lịch của một nhóm người, những người đi lập thành một nước mới để đùm bọc lấy nhau, nâng đỡ nhau, phát triển cùng nhau.
Tìm nguồn gốc dân tộc là tìm tất cả những sự kiện vừa nói, nhưng hỏi phải dựa vào đâu để làm đường hướng dẫn trong khi đi tìm? Thì "con ông không giống lông thì giống cánh. Sự giống nhau sẽ là khởi điểm và là con đường hướng dẫn trong việc tìm tòi. Nó sẽ chỉ lối cho chúng ta tiến bước, cho đến khi gặp được sự thật.
Tuy nhiên, sự dị biết không phải nhất thiết là một ngăn trở nên đường ngược về nguồn. Mỗi dân tộc, nhất là những dân tộc cổ cựu, bao giờ cũng có những đặc tính nó tách biệt dân đó với các dân lân cận, nhưng còn cần phải nhìn kỹ và những đặc tính như thế để cho biết nó phát sinh tự bao giờ, bởi vì một đặc tính đó có thể đã có từ xa xưa và bất di bất biến cho đến một trình độ nào đó, ví dụ đặc tính về nhân chủng, nhưng lại có những đặc tính chỉ phát hiện và nẩy nở trong một hoàn cảnh nào đó trên đà tiến triển của dân tộc qua thời gian. Vì vậy, hiện nay hai dân tộc có thể để lộ ra một số dị biệt, nhưng biết đâu trước kia đã có thể phát tích từ một gốc chung, và rồi đã tách nhau ra để sinh sống trong những khu vực địa lý biệt lập, đã có những hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội riêng và do đó đã trở nên khác nhau dần dần.
Như thế, yếu tố thời gian đóng một vai trò quan trọng cần phải lưu ý đến. Hiện tại xa với gốc hay gần với gốc bao nhiêu, vai trò của thời gian sẽ quan trọng nhiều hay ít bấy nhiêu. Công cuộc tìm nguồn gốc sẽ bắt đầu từ hiện tại để đi ngược giòng thời gian, phân tích những điểm tương đồng hay dị biệt đó xem nó là căn bản hay phụ thuộc, dò xét kỹ những biến cách của nó qua các thế kỷ để đi cho đến chỗ phát nguyên. Và, như đã nói, chỗ phát nguyên nầy không phải là chỗ phát nguyên tuyệt đối, vì không thể nào tìm được chỗ phát nguyên tuyệt đối của một dân tộc. Người tìm phải bằng lòng với nguồn gốc tương đối, nhưng càng tiến xa hơn càng hay để đến cho được chỗ mà một cộng đồng thể, khỉ sự trở thành một dân tộc riêng có một quốc gia riêng.
Để làm những việc vừa nói, chúng ta cần phải so sánh nhưng phải cẩn thận vì không phải sự giống nhau nào cũng có thể cho phép chúng ta đi đến một kết luận, mà trái lại chúng ta chỉ kết luận bao giờ có những giống nhau rút căn bản tự lịch sử mà ra. Thật thế, chỉ những tài liệu lịch sử mới là những ngọn đuốc chiếu sáng cho chúng ta trên con đường đi về nguồn gốc. Lần theo dấu của người xưa để lại đó, chúng ta mới có thể tiến về quá khứ bằng những bước vững vàng. Trong việc nghiên cứu sau đây, chúng tôi cố gắng trung thành hết sức với những điều chúng tôi vừa nêu ra đó.
2) Những giống nhau giữa dân Trung Hoa
Khi dẫn một đoạn văn của ông Lư-Shih-Peng trong dịp phê bình thuyết Aurousseau, chúng tôi đã khen ngợi tác giả họ Lư là khéo nhận xét và cũng đã nói rằng sự tương đồng giữa dân Việt Nam và dân Trung Hoa là một sự hiển nhiên.
Về phương diện nhân chủng, tức là phương diện căn bản, không sao nói được là hai dân tộc không giống nhau. Không kể những dân thiểu số ở miền sơn cước và một số rất ít những người Việt Nam lai Chàm, lai giống Anh-đô-nê hay Mê-la-nê, đại đa số người Việt Nam đều thuộc giống Mông Cổ, da thì vàng, tóc thì thẳng, có hình sọ giống hình sọ người Trung Hoa, có nét mặt giống nét mặt người Trung Hoa, nhất là người Trung Hoa ở miền đông nam. Sự giống nhau về mặt nhân chủng trong hiện tại, nếu có lịch sử nâng đỡ, sẽ nói lên mạnh mẽ sự đồng nguyên trong quá khứ: Nhưng đồng nguyên thế nào? Có phải nguyên theo kiểu Aurousseau đã trình bày hay không? Chúng tôi đã nói rằng không, vì thuyết đó không có sử liệu ủng hộ, và không hợp lý. Hay đồng nguyên với ý nghĩa nầy là dân vùng Hoa Nam, sau khi định cư ở vùng cổ Việt không? Đó chính là điều chúng tôi sắp trình bày với những sử liệu có thể có.
Ngoài sự tương đồng về nhân chủng, giữa người Trung Hoa và Việt còn có nhiều tương đồng về phong tục, về tập quán, về tôn giáo. Nghiên cứu những thói quen của Việt Nam trong mọi khía cánh của đời sống, người ta sẽ ngạc nhiên tự hỏi sao hai đàng có thể giống nhau đến thế. E. Biguet đã làm việc trong quyển Les Annamites, Société, Coutumes, Religions, và Pierre Gourou trong quyển La Terre et l'Homme en Extrême-Orient, và cả hai đã có cảm tưởng như vậy. (26)
Nhưng, mặc đầu với một cách chậm chạp và khó khăn, phong tục, tập quán, tôn giáo, và có thể thay đổi. Vậy, biết đâu, phong tục, tập quán, tôn giáo của Việt Nam, ngày nay giống của Trung quốc, trước kia vốn khác, và rồi qua thời Bắc thuộc dài đằng đẳng đã dần dần bị đồng hóa với của người Trung quốc? Đó chính là luận điệu của các sử gia chính thống và của những người theo họ. Thiết tưởng chủ trương như vậy không phải là vô lý khi không những tương đồng khác và đồng thời được lịch sử chứng minh. Nay, sau khi đã nhận sự tương đồng về nhân chủng, lại thấy những tương đồng khác về các điểm phụ thuộc, thì sự giống nhau nầy còn đâu là một sự đồng hóa, mà trái lại là một sự dời chuyển cả người lẫn phong tục, tập quán, tôn giáo.
Hơn nữa, đang khi các sử gia chính thống đưa vào sự kiện một nghìn năm Bắc thuộc để làm căn bản cho thuyết của họ nói rằng người Việt Nam đã bị đồng hóa, thì chính sự kiện một nghìn năm Bắc thuộc đó lại làm chứng ngược lại. Hỏi một nghìn năm Bắc thuộc đã Hoa hóa người Việt Nam sẵn có ở cổ Việt, hay đó là chính thời gian người Trung Hoa đã, đợt nầy rồi đợt khác, sang thực dân tại đây, và cuối cùng, khi mọi sự đã tỏ ra thuận lợi, đã đứng dậy, lập một nước riêng, nước Việt Nam? Tài liệu lịch sử đã ủng hộ kiến giải thứ hai, như sẽ thấy.
Ngôn ngữ cũng là một khía cạnh cần phải nhắc đến, và đây nữa, sự tương đồng cũng rất rõ rệt. Hầu như có thể nói được rằng tiếng Việt Nam ngày nay, sáu mươi thế kỷ độc lập, vẫn còn là chính tiếng Tàu nhưng đọc lên một cách hơi khác với các cách đọc của những tiếng địa phương ở Trung Quốc. Cố nhiên, trong Việt ngữ, đôi khi có xen vào một số những tiếng không phải gốc Tàu, như tiếng Mọi, tiếng Chàm, nhưng hiện tượng đó không thể nói lên gì khác, ngoài sự người Việt Nam trên đường bành trướng, đã có gặp người Mọi, người Chàm, cùng một cách như họ đã gặp người Pháp trong thế kỷ vừa qua, và họ đã thâu nhận một số tiếng Pháp vào trong kho ngôn ngữ của họ.
Người ta có thể nói chữ nôm là thứ chữ riêng của người Việt Nam. Thực ra, chữ nôm chỉ làm chứng một cách hùng hồn hơn rằng tiếng Việt rất lệ thuộc tiếng Tàu, bởi vì tiếng dùng và nghĩa tiếng đã giống của người Trung Hoa, mà còn phải dùng những yếu tố của văn tự Trung Hoa để phiên diễn cách đọc hơi riêng của mình. Đàng khác, chữ nôm đâu có phải có trước khi người Tàu đến, mà chỉ mới xuất hiện mấy trăm năm sau khi người Việt Nam đã có một nền chính trị riêng. Cho nên, người ta rất có thể nói được rằng cách đọc riêng, thường được kể là đặc tính của Việt ngữ đó, mới xuất hiện sau khi quốc gia đã sống đời sống biệt lập, còn về trước, những người (sau nầy sẽ thành người Việt Nam) ở cổ Việt, cũng nói một tiếng như người Trung Quốc. Và người ta phải nói thế, một khi đã làm chứng được rằng người Việt Nam ngày nay là người Trung Quốc di cư sang đây trong thời Bắc thuộc.
Những tương đồng như vừa trình bày, đã đủ để nói lên rằng người Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa. Khi bài bác các thuyết của các sử gia chính thống, của Aurousseau, của Madrolle, chúng tôi đồng thời cũng đã rút phạm vi tìm tòi lại, nói rằng, người Trung Hoa không sang thực dân ở cổ Việt một cách đáng kể trước khi nhà Hán thôn tính vùng nầy. Trong thời nhà Triệu cai trị Nam Việt và bảo hộ đất Lạc Việt, chắc chắn đã có một số lẻ tẻ người Trung Hoa đến định cư ở đây, nhưng chưa có gì đáng lưu ý. Bây giờ đến lúc chúng tôi phải đem ra một số sự kiện lịch sử minh chứng sự người Trung Hoa di cư đến cổ Việt trong thời Bắc thuốc đã dần dần trở thành người Việt Nam.
3) Những sự kiện lịch sử
a) ĐÀ NAM TIẾN
Trong những sự kiện lịch sử to tát ủng hộ chủ trương vừa nói, trước hết phải kể cái đà nam tiến mạnh mẽ của người Trung Hoa và của người Việt Nam.
Bắt đầu từ thung lũng sông Vị lối đầu thiên kỷ thứ III trước Kỷ nguyên, người Trung Hoa đã tiến vừa về đông vừa về nam. Khi đại dương dừng họ lại về phía mặt trời mọc, bấy sức thúc đẩy họ đi xuống càng mãnh liệt hơn. Lối thế kỷ thứ tư trước Kỷ nguyên, cả vùng giữa sông Hoàng Hà và Dương Tử Giang đã có một nền văn minh chung, nền văn minh Trung Quốc. Khi Thủy Hoàng nhà Tần thống nhất xong thiên hạ, ông còn đẩy đà nam tiến xuống một nửa, vượt sông Dương Tử, vượt rặng Ngũ Lĩnh, đem dân Trung Hoa đến chiếm rải rác vùng châu thổ miền đông nam ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay. Công việc nhà Tần mới bắt đầu làm đó, nhà Hán đã tiếp tục và xúc tiến, và các triều đại sau đã kiện toàn.
Thế rồi, khi nhìn vào lịch sử Việt Nam, người ta lại nhìn thấy một hiện tượng tương tự xảy ra. Nếu đời Tùy, đời Đường, lực lượng Trung Quốc đã mở bờ cỏi vào đến Hải Vân, thì trong các thế kỷ sau, người Việt Nam, tách ra khỏi Trung Quốc từ sau thời Ngũ Đại, đã không ngừng chiến đấu để lấn thêm vào đất Chiêm Thành, một nước bấy giờ còn khá mạnh. Họ đã thành công một cách chắc chắn đến nổi tất cả đất Chiêm Thành và một phần đất Chân Lạp đã ở dưới chủ quyền của họ.
Đó là hai sự kiện lịch sử giống nhau và nối tiếp nhau, trong thời gian và trong không gian. Và người ta có quyền tự hỏi sao sự chắp nối của hai sự kiện đó, nghĩa là của đà Nam tiến, lại diễn ra một cách khéo léo như vậy? Phải chăng đã có một sự sắp xếp giữa hai quốc gia để nước nầy làm cho xong việc nước kia đã bắt đầu làm? Ức đoán nầy không thể nào chấp nhận được, vì không có căn cứ lịch sử tí nào hết. Và người ta chỉ còn có một hướng nữa để ức đoán, đó là không cần gì phải sắp đặt, bởi vì cái đà Nam tiến đã nằm sẵn trong ý chí của nhân dân Việt Nam. Trước là người Trung Quốc, nhưng đã biệt lập về phương diện chính trị, người Việt Nam cảm thấy có bổn phận phải thi thố sức sống mãnh liệt tiền bối đã truyền lại cho và bánh trướng mãi theo đà cha ông đã đặt trước.
Tình cảnh tự nhiên trong việc người Việt Nam tiếp tục đà Nam tiến của người Trung Quốc, bởi vì họ bắt gốc từ người Trung Quốc mà ra, càng thấy được rõ hơn nữa, khi chúng ta nhớ lại rằng vào thế kỷ 17, 18, chính một số người Trung Quốc từ Trung Quốc sang đã giúp các Chúa Nguyễn hoàn thành mau chóng công cuộc chiếm cứ Thủy Chân Lạp. Năm 1679, lối bảy chục chiếc ghe chở chừng ba nghìn người và một số quan lại cao cấp Trung Hoa đến cửa Đà Nẵng. Người cầm đầu là những cựu thân nhà Minh như Dương Ngạn Địch, trấn thủ Long Môn (Quảng Tây). Họ đến xin Hiền Vương nhận họ làm con dân, và xin một địa điểm để sinh cơ lập nghiệp. Chúa Nguyễn đã cho họ vào chiếm các nơi như Biên Hòa, Mỹ Tho, và những chỗ đó sẽ thành những bàn đạp cho người Việt Nam bành trướng. Một người Trung Hoa khác là Mạc Cửu ở Hà Tiên cũng vậy. Ở Quảng Đông sang đây vào cuối thế kỷ 17, ông đã giúp chính quyền Cao Man làm cho Phương Thành (sau gọi là Hà Tiên) trở nên trù phú. Chẳng bao lâu, nhận thấy những kẻ cai trị nước đó không xứng đáng ông giúp đỡ, ông đã xin với Minh vương (1691-1725) cho ông ta thần phục, và Minh vương đã đặt ông làm Trấn thủ Hà Tiên. Con cháu ông đã trung thành mãi với nhà Nguyễn cho đến khi cả vùng đó trở thành đất Việt Nam vĩnh cửu.
b) NAM VIỆT, MỘT ĐỢT THỰC DÂN DỌN ĐƯỜNG
Muốn biết rõ những gì đã xảy ra ở cổ Việt, đợt thực dân cuối cùng của người Trung Quốc, chúng ta thử nhìn kỹ hơn vào những gì đã xảy ra ở đợt trước đó, tại Nam Việt.
Khi nhà Tần có ý chiếm vùng Ngũ Lĩnh, chẳng những họ gởi lực lượng đến Lĩnh Nam, mà họ còn cho những người không phải là binh sĩ đến lập nghiệp. Đoạn sau đây của Sử ký cho biết điều đó: "Năm thứ 33 (đời Tần Thủy Hoàng, tức là năm 214 trước Kỷ nguyên), nhà Tần sai tất cả những kẻ lang thang, vô thừa nhận, bọn ăn dưng ở nể, và bọn con buôn đi chiếm đất Lục Lương. Ông lập ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng, và đày những người có tội đến ở để giữ." (27)
Ở một đoạn khác, Sử ký nói tóm lại việc trên đây và thêm một vài chi tiết cho thấy rõ chính sách "thực dân" xưa của người Trung Quốc. Sách chép:
"Khi Thủy Hoàng nhà Tần thôn tính xong thiên hạ và dẹp yên được Dương Việt, ông lập các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng. Trong mười ba năm, ông bắt bọn côn đồ tù tội đến ở rải rác khắp nơi (tạp xử) giữa dân Việt." (28)
Tiếng tạp xử nói rõ ý kiến ở một nơi một ít đâu đâu cũng có để rồi phát triển theo kiểu vết dầu loang. Cách nầy hết sức công hiệu để làm chủ cả một vùng đất rộng lớn, vì đang khi người Tần đến ở chung giữa người Việt, thì hạng người nầy lại rút đi, vào ở những chỗ xa xuôi hoang rậm. Lưu Ấn đã chép: "Việt nhân nhập tùng bạc trung dự cầm thú xử, mạc khẳng vi Tấn lỗ ". (Người Việt tất cả rút vào chỗ hoang rậm ở với cầm thú chứ không chịu làm tôi người Tần.) (29)
Thử hỏi số binh sĩ và thường dân được chính quyền nhà Tần gửi đến vùng Lĩnh Nam là bao nhiêu? Điều đó không sao biết rõ được, nhưng người ta có thể phỏng đoán nhờ sự kiện sau đây. Bấy giờ, trong số những người chỉ huy công cuộc chinh phục miền nam có Triệu Đà. Khi lực lượng chinh phục đã thắng. Đà được đặt làm Lệnh Long Xuyên. Tại đây, tất có binh sĩ và một số những kẻ nhà Tần gửi đến để sinh sống. Nói cách khác, tại đây chỉ có một phần trong số người Trung Quốc được di cư về Nam. Vậy mà Đà đã phải sai "sứ mang thư về triều xin gửi đến ba vạn con gái hoặc đàn bà góa để gả làm vợ binh sĩ". (Sử nhân thượng thư cầu nữ vô gia giả tam vạn nhân dĩ vi sĩ tốt y bố.) Nếu thực sự triều đình cho, thì ở đó đã có ba vạn gia đình. (30)
Ở đây, nên chú ý đến một khía cạnh của vấn đề, nó sẽ giúp hiểu rõ hơn sự hình thành của dân tộc Việt Nam. Tại sao Triệu Đà lại phải dâng thư xin gởi phụ nữ từ Trung Quốc đến Nam Hải? Có phải vì ở đây thiếu phụ nữ không? Điều đó có thể như vậy, nhưng nó chưa trả lời đầy đủ cho câu hỏi. Một lực lượng chiếm đóng như của Triệu Đà chẳng những có thể ăn cướp được đất đai, mà còn có thể ăn cướp người nữa. Một điều có thể giải đáp được nghi vấn, đó là người Việt không cùng một loại như người Trung Quốc. Chẳng những họ thiếu văn minh, mà họ còn thuộc về nhiều giống bán khai khác nhau, thích sống tự do ở chỗ hoang rậm hơn là ép mình vào khuôn khổ lễ giáo. Với hạng người như thế, dân Trung Quốc di cư đến chỉ có thể có những liên lạc rất cần thiết và nhất thời, chứ không sao nối được dây thân tình thâm thiết và lâu dài như việc kết tóc xe tơ chẳng hạn.
Sau khi những việc như trên đã xảy ra, và cơ hội tốt đã đến, Triệu Đà đã đứng lên lập thành một nước mới. Tiền Hán thư chép: "Đến thời Nhị Thế, viên úy Nam Hải là Nhâm Ngao lâm bệnh nặng gần chết, mời viên Lệnh Long Xuyên là Triệu Đà đến, nói rằng: "Nghe bọn Trần Thắng làm loạn hào kiệt phản nhà Tần tự lập. Nam Hải là chỗ xa xuôi, số binh sĩ đến đây cướp phá, tôi muốn cất quân cắt đứt đường liên lạc để tự vệ, đợi xem loạn của các chư hầu ra sao. Nhưng rồi bệnh thành trầm trọng, ông lại nói: Phiên Ngung có núi non hiểm trở, nam bắc đông tây rộng đến mấy nghìn dặm, lại có người Trung Quốc giúp đỡ, cũng có thể làm chủ một châu và làm thành một nước; các trưởng lại trong quận không ai xứng đáng để tôi đem mưu đó ra bàn, nên mời ông đến nói cho biết. Tức thì ông viết giấy đặt Đà làm Úy Nam Hải". Và khi Ngao mất rồi, Đà đã cắt đứt liên lạc với nhà Tần và lập thành nước Nam Việt. (31)
Theo như vừa trình bày, về công cuộc nam chinh của Trung Quốc và mưu mô của Triệu Đà, chúng ta thấy rõ mấy sự kiện sau đây:
- cuộc Nam tiến là một cuộc "thực dân" (trồng người).
- dân di cư đến đất mới đã được tổ chức làm sao để có thể chiếm được một khu vực rộng lớn và lập cơ sở lâu dài.
- dân ở lại đất mới gồm nhiều thành phần, quan lại, binh sĩ, thương gia, tội nhân...
- Khi có cơ hội đất mới sẽ tách ra làm một nước mới dựa vào "người Trung Quốc" định cư giúp đỡ.
4) Người Trung Quốc định cư ở cổ Việt
Không cần phải nhắc lại là từ năm III trước Kỷ nguyên, nhà Hán đã chiếm đất cổ Việt. Từ đó đợt "thực dân" cuối cùng của Trung Quốc bắt đầu, nó sẽ kết thúc bằng sự thành lập một quốc gia mới, nước Đại Cồ Việt. Những việc xảy ra tại đây cũng chẳng khác gì những việc đã xảy ra ở Nam Việt, nhưng hai bên không phải hoàn toàn giống nhau. Nước Nam Việt đã được gây dựng quá vội vàng, vị trí của nước Nam Việt lại không có những biên giới thiên nhiên vững mạnh trấn giữ, bởi đó không lạ gì, sau một thời độc lập, nước Nam Việt lại bị Trung Quốc thôn tính. Nước Việt Nam hình thành từ từ, trải một thời dài ngót mười thế kỷ, lại được cả một vùng sông núi oai hùng phòng vệ, không lạ gì một khi đã độc lập là độc lập mãi, dầu có nhiều lần Trung quốc đã dốc cả lực lượng sang cố ép Việt Nam nối lại dây xưa, cũng không thể nào thành công. Sở dĩ sự hình thành của Việt Nam phải mất nhiều năm, cũng là vì sự núi non hiểm trở vừa nói. Dầu vậy, số người Trung Quốc di cư sang cổ Việt vẫn một ngày một đông, đông mãi...
Vào cuối đời Tây Hán, số người nầy đã khá lớn. Khi Tiền Hán thư nói Giao Chỉ có 746.237 người, Cửu Chân có 186.013 người và Nhật Nam có 65.460 người, trong đó một phần không nhiều thì ít phải gồm người Trung Quốc di cư đến. Đầu thời Đông Hán, họ chắc chắn đã là một thành phần đáng kể. Sử liệu chung quanh vấn đề hai Bà Trưng và Mã Viện đều làm chứng như vậy. (32)
Thật thế, khi đọc "Mã Viện Truyện" của Hậu Hán thư, người ta có thể thấy nhiều chỗ để lộ ra một sự kiện rất đáng lưu ý, đó là chữ thành khi nói rằng người man di nơi đây đã cướp phá hơn sáu mươi thành. Cắt nghĩa chữ thành nầy, Henri Maspéro đã nói nó không phải chỉ thành quách. Nếu vậy, nó chỉ gì? Ông đã đáp câu hỏi đó một cách khí vu vơ. Lời ông: "Sáu mươi lăm thành qui thuận Trung Quốc đó chỉ có thể là những trụ sở có bố phòng kiên cố của các tù trưởng Thái ở vùng châu thổ và miền thượng du". Lối nầy chẳng những thất sách về mặt lý luận mà còn tỏ ra là ít hiểu chữ Hán nữa. Hai chữ "khẩu lược" của Hậu Hán thư đã được ông dịch là "se soumirent", và vì dịch sai như vậy, quan niệm của ông về cuộc nổi dậy đã bị lệch lạc. Có lẽ ông không thể tin được là người Trung quốc đã quy thuận Trưng Trắc nên ông mới quay về các tù trưởng Thái. Nhưng đem các tù trưởng Thái vào đây là ông đã làm một việc mâu thuẫn với lịch sử. Hỏi ở Bắc Việt xưa nay làm gì có người Thái ở vùng châu thổ? Lại nếu tất cả dân man di "giai ứng chi", thì đâu họ còn phải quy thuận hai bà Trưng? (33)
Nhưng, theo sách địa chí của Hậu Hán thư thì bấy giờ huyện gọi là thành, vậy có thể rằng hơn sáu mươi thành đây là chỉ hơn sáu mươi huyện chăng? Giải thích thế càng không được nữa, vì chúng ta có thể biết được những quận có dân man di nổi dậy, mà số thành của các quận đó quá ít. Đây tên các quận và số thành của nó:
Giao Chỉ 10 thành
Cửu Chân 7 thành
Nhật Nam 5 thành
Hợp Phổ 5 thành
................... (34)
Tổng cộng 27 thành
Nay, muốn biết những thành bị quân bà Trưng và dân man di khẩu lược đó là gì, trước hết nên nhớ rằng đó chỉ có thể là những nơi thuộc về phe địch của dân Lạc Việt, và trong trường hợp nầy là người Trung Quốc. Đây là một cuộc xung đột, giữa người thổ dân, một bên, là người ngoại lai, bên kia, nên bất cứ ai là người Trung Quốc, không kể là sĩ hay quan lại, hay thường dân, đều là kẻ thù của người bị trị. Bởi đó, tất cả các trại định cư của người Tàu đều phải đào hào đắp lủy để phòng thủ. Những nơi họ ở rải rác đều phải tập trung lại để có đủ sức chống cự với thổ dân. Những "đồn trại" nhất thời nầy, cọng với những đồn trại và những thành thực sự, mới có thể lên được đến con số hơn sáu mươi. Như vậy, chúng ta thấy được rằng dân Trung Quốc đến định cư đã khá nhiều.
Một tài liệu khác củng cố thêm điều đó. Trong Thủy kinh chú có một câu xưa nay làm bận tâm các sử gia nhiều. Nói về lực lượng Mã Viện kéo sang đánh cổ Việt, sách đó chép: "Năm Kiến Võ thứ 19, Mã Viện tâu trình vua rằng: Thần đã cẩn thận tiến vào Giao Chỉ với một toán binh Giao Chỉ là 12.000 người, hợp với đại binh 20.000 và thuyền xa lớn bé tất cả hai nghìn chiếc". Hỏi Mã Viện sang đánh Giao Chỉ, sao lại có 12.000 tinh binh Giao Chỉ để ủng hộ đại quân của ông? Số tinh binh đó ở đâu mà đến? Trả lời cho câu hỏi khúc mắc đó, Henri Maspéro đã không làm được gì khác ngoài phỏng đoán. Ông phỏng đoán rằng: "tinh binh Giao Chỉ" đây là binh sĩ lấy ở Quảng Đông và cho rằng giải thích như vậy là xuôi hơn hết. Ông nhắc lại một sự kiện lịch sử để làm căn bản cho lý luận của ông, đó là dưới thời Hán, "tiếng Giao Chỉ có hai nghĩa, một nghĩa chỉ quận Giao Chỉ tức là Bắc Việt, và một nghĩa rộng chỉ khu vực chín quận thuộc quyền thứ sử Giao Chỉ, khu vực nầy vào đầu thế kỷ thứ ba sẽ thành Giao Châu. Hiển nhiên rằng đây phải theo nghĩa thứ hai, vì quận Giao Chỉ đã làm loạn". (35)
Maspéro nghĩ rằng đó là hiển nhiên, nhưng thực sự không được hiển nhiên là bao nhiêu. Hai tiếng Giao Chỉ nằm bên cạnh nhau trong một câu văn khó mà chỉ hai nghĩa xa nhau như thế. Lại Mã Viện không phải là một người không có óc nhận xét về địa lý. Chính ông đã cắt Tây Vu để lập hai huyện mới là Phong Khê và Vọng Hải. Chắc chắn rằng khi viết một tờ tấu quan trọng, ông cũng cố gắng cho khỏi điểm lầm, và nếu thực sự hai tiếng Giao Chỉ có nghĩa khác nhau, hẳn ông đã biết thêm những tiếng quận và bộ vào những chỗ cần thiết. Đàng nầy, đã không làm như vậy, ông còn mạnh mẽ lặp lại tiếng Giao Chỉ, như là muốn nhấn thêm vào ý kiến rằng hai tiếng chỉ cùng một nghĩa. Một ghi nhận nên có nữa, là ở Giao Chỉ vốn có một số quân thường trực để bảo vệ các viên thứ sử, thái thú, nhưng số quân nầy thường đến bốn nghìn là cùng. Giả sử nhà cầm quyền có sẵn trong tay 12.000 tinh binh, chắc gì lực lượng Trưng Trắc đã thắng được ông.
Maspéro có thể cho rằng lý luận của ông là hiển nhiên, là vì, theo ông, "quận Giao Chỉ đã làm loạn". Có ngờ đâu, nào có phải tất cả quận Giao Chỉ làm loạn. Những người làm loạn, như sử cho biết, chỉ là người Lạc Việt và dân man di. Bên cạnh những thứ người nầy còn có người Trung Quốc, và ở cổ Việt, quận Giao Chỉ là nơi người Trung Quốc đã đến định cư sớm hơn và đông hơn các nơi khác. Bị người Lạc Việt và dân man di "khẩu lược", họ đã tổ chức tự vệ, nhưng không phải khắp mọi nơi đều phải tự vệ như thế. Những chỗ có giao tranh chỉ là những chỗ hai thứ dân ở gần nhau, nghĩa là vùng núi, vì người Lạc Việt thường chọn những vùng cận sơn, hợp với đời sống bản khai của họ. Đang lúc đó, dân Trung quốc di cư sang, đa số lại ở gần những trung tâm hành chánh, những đồn trại, và những chỗ đất tốt ở vùng châu thổ để canh gác. Như thế, chỗ nào đã bị khẩu lược, thì mong lực lượng Trung Quốc sang để đánh bại đối phương, còn chỗ nào chưa bị khẩu lược hay bị khẩu lược mà chống cự được, phẩy cũng mong lực lượng chính quyền sang để tái lập an ninh chung. Trong sự mong chờ hồi hộp đó, sẽ không lạ gì nếu người Giao Chỉ (những người Trung Quốc định cư) khi được tin quân của Phục ba tướng quân sắp đến, đã lập thành một đạo quân, một đạo tinh binh, lên đến 12.000 người đi đón đại quân và cùng với đại quân vào đánh bại hai bà Trưng.
Sự người Trung Quốc đã định cư khá đông ở cổ Việt vào đầu Kỷ nguyên, có thể nói được là không còn có gì đáng hoài nghi. Nhưng không phải họ chỉ định cư ở Giao Chỉ mà thôi, mà đến cả những nơi xa xuôi như Nhật Nam nữa. Một việc xảy ra vào năm 138 đã tiết lộ một vài khía cạnh rất đáng lưu ý về vấn đề nầy. Bấy giờ quân Lâm ấp tấn công Nhật Nam và thứ sử Giao Châu là Giả Xương vào đánh đuổi, lại bị địch vây lấy lâu ngày. Khi Hiếu Thuận Đế nhà Hán hội đình thần lại vấn kế để đối phó, Lý Cố bàn không nên gửi lực lượng sang và đề nghị rằng:
" Kinh nghiệm cho biết là châu quận có đủ sức đảm nhậm công việc. Nên chọn những người dũng lược, nhân từ, có tài làm tướng soái, để đặt làm thứ sử, thái thú, và bảo họ trú lại tại Giao Chỉ. Ở Nhật Nam, nay binh thì cô, lương thì thiếu, giữ đã không được, còn nói gì chuyện đánh. Vậy nhất thiết hãy tản cư quan lại và dân cư ra Bắc, nương nhờ vào Giao Chỉ đã, đợi tình hình yên ổn lại truyền cho họ ai đâu về đấy. Trong lúc đó, hãy chiêu mộ dân man di để họ đánh lấy nhau, chở vàng lụa vào cho họ, hễ ai có tài làm phản gián thì hứa với họ bao giờ được việc sẽ phong hầu cho và sẽ cắt đất tặng thưởng". (36)
Lời của Lý Cố chứa chất nhiều ý nghĩa. Trước hết tiếng "dân cư" đi theo tiếng "quan lại", như vừa thấy, chắc chắn không phải chỉ tất cả những ai sinh sống ở Nhật Nam thời bấy giờ. Vì lẽ Lý Cố đã phân biệt có hai loại người ở Nhật Nam (và ý ông có lẽ chỉ cả vùng cổ Việt), và một loại ông đã gọi là man di, thì loại kia, loại đi kèm theo "quan lại", tất nhiên phải là "hoa". Rồi, những người "hoa" nầy đã vào Nhật Nam để sống lâu dài tại đây, chứ không phải chỉ tạm trú trong một thời, vì Lý Cố cho biết là "đời tình hình yên ổn, lại truyền cho họ ai đâu về đấy". Như thế, không thể nào chối cải được rằng, vào năm 138, một niên biểu tương đối sớm, đã có nhiều người Trung Hoa chọn vùng Nhật Nam làm quê hương lâu dài.
Một nhận xét khác không kém quan trọng, đó là sự triều đình Trung Quốc lo lắng cho người dân ở Nhật Nam. Chúng ta vừa thấy những người dân đó là người Trung Quốc, bởi vì nếu họ không phải là người Trung Quốc, đâu triều đình nhà Hán phải lo lắng cho họ đến thế. Điều đó nói được là đã hiển nhiên. Nhưng chỗ chúng tôi muốn nhấn mạnh, là bên cạnh sự Bắc triều có lòng ưu ái đối với số phận của người "dân" nầy, lời của Lý Cố lại tỏ ra hết sức hửng hờ, nếu không phải là tàn nhẫn, đối với loại người man. Câu "mộ man di sử tự tương công" chẳng những làm chứng một thái độ "sống chết mặc bay", mà còn nói lên một chủ trương khai thác độc ác sinh mạng của loại người không phải cùng một văn minh. Thấy cách cư xử đó đối với người man di, tức là thổ dân, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi nghe Lý Cố chỉ gọi đồng bào của ông là "dân". Hỏi những người khác không phải là dân sao? Lúc người Tàu sang định cư còn thưa thớt, thì thổ dân cũng là dân, nhưng một khi số người Tàu đã đông khá, một vấn đề xuất hiện: Không phải chỉ có thể yên tâm khai thác, mà còn phải lo đến việc khai hóa. Khai hóa cho cả mọi người sao? Có lẽ chính quyền Trung Quốc nghĩ rằng không tiện và không có thể. Như vậy phải có một sự phân biệt, hay nói cho đúng hơn, một sự kỳ thị. Có ngày, chẳng những trong tư tưởng, mà còn cả ở trong chính sách (phẩy) cả trong sổ sách, người ta sẽ loại người man di ra khỏi hàng ngũ công dân. Đoạn văn trích trên đây đã đánh dấu một bước tiến theo hướng đó.
Bấy nhiêu chứng tích, hợp với bao nhiêu chứng tích khác trình bày rải rác trong tập nầy dồn lại, bắt chúng tôi phải kết luận rằng sự hình thành của dân Việt Nam đã bắt đầu từ thời nhà Hán sang cai trị cổ Việt và kéo dài, suốt mười thế kỷ mới hoàn tất với sự Ngô Quyền, rồi Đinh Bộ Lĩnh tách rời ra khỏi Trung Quốc để lập một nước mới. (37)
CHÚ THÍCH
Ngô Sĩ Liên,
1. Toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 1, tờ 1a.
2. Ngô Sĩ Liên, sách đã dẫn, quyển 1, tờ 5b.
3. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, quyển thủ, tờ 9b.
4. Cương mục, Tiền biên, quyển 2, tờ 8a.
5. Cương mục, Tiền biên, quyển 2, tờ 29b.
6. Séraphin Couvreur, Chou King, Les Annales de la Chine, Cathasia, Paris, 1950, trang 70, 72.
7. Ngô Sĩ Liên, sách đã dẫn, quyển 1, tờ 3a.
8. Léonard Aurousseau, "La Première Conquête Chinoise des Pays Annamites", BEFEO, tập XXIII, trang 245-264.
Édouard Chavannes, Mémoires historiques de Se-ma Ts'ien, Paris, trong lời dẫn nhập, trang LXXVIII.
9. Tư Mã Thiên, Sử ký, quyển 43, trong bộ Nhị thập Ngũ sử, trang 150, cột 3.
10. Tư Mã Thiên, cùng một chỗ, ở phần chính nghĩa.
11. Aurousseau, bài đã dẫn, trang 253.
12. Aurousseau, bài đã dẫn, từ trang 255 đến 263.
13. Lü Shih Peng, Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam, Trung Việt quan hệ sử, Tân Á nghiên cứu sở Hong Kong, 1964, trang 2.
14. Claude Madrolle, "Le Tonkin Ancien", BEFEO, tập XL, trang 310.
15. Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, quyển 41, trang 146, cột 1.
16. Aurousseau, bài đã dẫn, trang 254.
17. Mathias Tchang, S. J. Synchronismes Chinois, Imprimerie de la Mission catholique, Chanh Hai, 1905, trang 105-110.
18. Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, quyển 41, trang 147, cột 1.
19. Madrolle, bài đã dẫn, trang 108-116.
20. Madrolle, bài đã dẫn, trang 313.
21. Madrolle, bài đã dẫn, trang 312.
22. Madrolle, bài đã dẫn, trang 313.
23. Madrolle, bài đã dẫn, trang 314.
24. Madrolle, cùng một chỗ.
25. Madrolle, bài đã dẫn, trang 315.
26. Colonel E. Biguet, Les Annamites, Société, Coutumes, Religions, Challamel, Paris, 1906.
- Pierre Gourou, Terre et l'Homme en Extrême-Orient, Armand Colin, Paris, 1952.
27. Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, quyển 6, trang 25, cột 2.
28. Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, quyển 113, trang 25i, cột H.
29. Lưu An, Houai-nan Tseu, quyển 18, Nhân Gian Huân, tờ 18a, cột 8.
30. Tư Mã Thiên, sách đã dẫn, quyển 118, trang 260, cột 2.
31. Tư Mã Thiên, chỗ đã dẫn.
32. Ban Cố, Tiền Hán thư, quyển 28, trang 426, cột 4.
33. Henri Maspéro, Études d'Histoires d'Annam, V. L'Expédition de Ma Yuan, BEFEO, tập XVIII, trang 13, chú 2.
34. Phạm Việp, Hậu Hán thư, quyển 33, trang 710, cột 2.
35. Lệ Đào Nguyên, Thủy Kinh chú, quyển 116, tờ 3b.
Henri Maspéro, bài đã dẫn, trang 14, chú 7.
36. Tư Mã Quang, Tư Trị Thông Giám, quyển 52, tờ 8b.
37. Nguyễn Phương, "Tiến trình hình thành dân tộc Việt Nam", Đại Học, Huế, số 32.