CHƯƠNG THỨ SÁU (tt) -II. NGUỒN GỐC VIỆT NAM THEO CÁC SỬ GIA NGOẠI QUỐC-
Trong thế kỷ hai mươi, một số sử gia ngoại quốc đã lưu ý cách riêng đến lịch sử Việt Nam và cũng có kẻ đã đề cập đến vấn đề nguồn gốc dân tộc ta. Trong hạng sau, những người đã đem ra nhiều ý kiến đáng kể là các ông Léonard Aurousseau và Claude Madrolle.
1) Thuyết của Aurousseau
Năm 1923, trong Tập san Viễn đông Bác cổ, Aurousseau đã cho đăng tải một bài công phu nhan đề là "Lần đầu tiên Trung quốc chinh phục các xứ annamites". Đó là một bài nghiên cứu sáng sủa với những tài liệu dồi dào và ngay ở đề mục cũng đã thấy được rằng ông có nhiều ý kiến mới mẻ về lịch sử các thứ dân Việt vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Kỷ nguyên. Theo ông, trận nhà Tần cho quân vượt Ngũ Lĩnh để chinh phục miền nam Trung quốc, là đánh chống lại thứ người mà ông gọi là An-nam-mít, tức là dân Việt Nam. Mặc dầu ngày nay cách luận lý và chủ trương của ông đã tỏ ra không được chắc chắn, bài đó vẫn còn đem lại cho người đọc nhiều bổ ích. Điều đáng chú ý hơn, đó là phần phụ lục của bài, trong đó ông có ý giải đáp vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Với nhan đề "Note sur l'Origine du peuple annamite", ông trình bày quan điểm của ông một cách xem ra rất khoa học. Ông tự nhận rằng không phải chính mình ông đã nghĩ ra những ý kiến ông sắp nói tới, mà ý kiến đó tiên nguyên là của Edouard Chavannes khi ông này dịch bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Ở chỗ Tư Mã Thiên nói về nước Việt ở vùng Triết giang, Chavannes đoán rằng rất có thể dân của Câu Tiển đã là tổ tiên của dân An-nam-mit ngày nay. Ý kiến được gợi ra đó, Aurousseau cố gắng giải thích và minh chứng bằng những sử liệu và lý luận ông tìm được. (8)
Ông bắt đầu nhận định rằng trước khi Tần Thủy Hoàng tiến về nam, miền Nam Hoa chia làm hai khu vực lớn, khu vực tây nam (gồm Quế Châu), miền nam Tứ Xuyên và Vân Nam) do giống người gọi là Tây-nam-man chiếm cứ, và khu vực đông nam (gồm Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Kỳ và phía bắc Trung Kỳ) do giống Bách Việt chiếm cứ, trong đó có thứ người ông gọi là An-nam-mit.
Để có thể chủ trương người Việt Nam là dòng dõi của dân Câu Tiển, ông quả quyết rằng người Việt Nam không phải là thổ dân và không xuất hiện tại Việt Nam trước thế kỷ thứ ba trước Kỷ nguyên. Ông cũng quả quyết rằng Tây Âu là chỉ vùng Bắc Việt và người Bắc Việt của thời bấy giờ là chính dân Tây Âu. Rồi ông minh chứng bằng sử liệu rằng dân Tây Âu gốc tại nước Việt ở vùng Triết giang. Sau đây là cách trình bày lý luận của ông:
a) Dân Tây Âu có tục văn thân... (Tiển phát, văn thân, tả nhậm, Âu Việt chi dân dã. (9)
b) Dân Âu Lạc và dân Việt đều thuộc về họ Mĩ (Việt cập Âu Lạc giai Mĩ tính dã). (10)
Xem đó, theo ông, về mặt dòng giống, giống Âu Lạc và dân Việt giống nhau (họ Mĩ), về mặt phong tục sử sách cũng cho biết hai bên không khác nhau, vì Sử ký nói: "Tổ Tiên Câu Tiển là dòng Vua Ngu... văn thân đoạn phát". Như thế hai dân là một.
Nhưng sao hai dân lại có thể ở xa nhau như thế? Thì, Aurousseau nói tiếp, đó là vì nước Việt đã bị nước Sở tiêu diệt kể từ năm 333 nên dân nước Việt phải tản đi các nơi, lập thành nhiều nhóm. Ông lại dẫn Sử ký của Tư Mã Thiên để làm chứng: "Sau các biến cố đó, nước Việt tan tành. Con cái các nhánh họ đánh lẫn nhau để giành quyền bính, có kẻ làm vương, có kẻ làm quân. Họ chiếm bờ biển về phía nam Sông (11). Aurousseau bám chặt vào những chữ "có kẻ làm vương, có kẻ làm quân" để suy ra rằng con cái các nhánh họ của người Việt đã chóng phân tán thành nhiều nhóm đến nổi thường được gọi là Bách Việt.
Ông xếp loại Bách Việt lại thành bốn nhóm lớn:
a) Nhóm Ôn Châu, tức là Đông Âu, ở vùng Âu giang. Năm 221, Tần Thủy Hoàng thôn tính đất Đông Âu, nhưng năm 192, Huệ đến nhà Hán đã lập lại với tên là Việt Đông Hải. Lối 135, nước nầy xin nhập vào nhà Hán.
b) Nhóm Phúc Kiến, tức Mân Việt, cũng bị nhà Tần phá và được nhà Hán (Hán Cao Tổ) lập lại năm 202. Năm 135, Mân Việt đánh Nam Việt, bị nhà Hán chia làm hai, thành Mân Việt và Đông Việt, cả hai đều bị thôn tính vào năm 111.
c) Nhóm Quảng Đông, tức là Nam Việt, nước đó Triệu Đà lập năm 207.
"Có lẽ ngoài Nam Việt chính thức ra, các nước khác yếu hơn, nhiều hơn, ít liên kết hơn ở miền đông. Và tên Bách Việt thích hợp với các nước đó nhất." Năm III trước Kỷ nguyên, Nam Việt đã bị nhà Hán thôn tính. (12)
d) Nhóm An-nam-mit ở miền nam Quảng Tây và Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Đó là Lạc Việt, hay Tây Âu, hay Tây Âu Lạc, và nếu gọi bằng tên cũ hơn, thì đó là Giao Chỉ.
Aurousseau nói đó là gốc tích của dân Việt Nam. Nhưng ông còn có thể đi lũi xa hơn nữa vào quá khứ. Vì Sử ký cho biết nước Sở cũng thuộc về họ Mĩ mà nước Sở bắt nguồn mãi từ thế kỷ II trước khi Kỷ nguyên, nên ông nghĩ rằng có thể nói được là gốc tích người An-nam-mit khỉ sự từ thế kỷ II trước Kỷ nguyên.
Mới đây, một học giả Trung Hoa, ông Lü Shih-Peng (Lư Sĩ Bằng) đã nhiệt liệt tán dương kiến giải của Léonard Aurousseau. Ông nói:
"Khảo cổ học, nhân loại học, ngôn ngữ học, dân tộc học đã khám phá được đầy đủ sự kiện để minh chứng rằng thuyết của Aurousseau là đúng. Chủ nhân văn minh Bắc sơn của tiền sử Việt Nam là thuộc giống Anh-đô-nê. Xét văn hóa Đông sơn, trong đó có văn hóa trống đồng Lạc Việt, thì thấy rằng trong việc tiếp thu ảnh hưởng ngoại lai, ảnh hưởng chủ yếu là của Trung Hoa, lại khu vực phân bố của văn hóa Đông sơn cũng nằm cả ở vùng bán đảo Đông Dương và vùng Hoa Nam. Về mặt thể chất, dân Việt Nam thuộc giống nam Mông Cổ, tóc thẳng, da vàng, rồi hình đầu, hình mũi, chỉ số cho đến hình vóc cao đều gần giống dân vùng Mân Việt. Về mặt ngôn ngữ, dân Việt Nam nói Việt ngữ, một thứ tiếng đơn âm, phức thanh, phân giảng, giống như Hán ngữ. Còn về những đặc tính của nguyên thủy văn hóa thì hoàn toàn là của văn hóa xưa của vùng Đông Nam Á. (13)
Qua đoạn nầy, người đọc có thể có hai nhận xét, một là tác giả nêu lên sự giống nhau giữa người Việt Nam và người Trung Hoa, hai là tác giả dùng sự giống nhau đó để bênh vực cho thuyết của Aurousseau. Điều thứ nhất, như chúng tôi đã nhiều lần quả quyết, chắc không ai là không đồng ý với ông Lư Sĩ Bằng, bởi vì đó là một sự thật hiển nhiên. Nhưng chúng tôi hiểu sự giống nhau nầy trong trạng thái hiện tại, chứ không phải trong trạng thái của thời Tần Hán, và đó là chỗ chúng tôi không đồng ý với tác giả quyển Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam.
Về điểm thứ hai, lý luận của tác giả dựa vào trên một nền tảng hết sức gập ghềnh. Ông có thể dễ dàng tin rằng văn hóa Đông sơn thuộc ảnh hưởng Trung Hoa vì ông là Trung Hoa, nhưng các học giả Tây phương, như Goloubew và nhiều người khác lại có thể nói nó thuộc ảnh hưởng của nhiều nền văn minh khác nhau và khu vực phân bố trống đồng đâu có phải chỉ ở bán đảo Đông Dương và vùng Hoa Nam? Theo ông, văn hóa Đông sơn của dân Lạc Việt ủng hộ cho thuyết của Aurousseau, mà thuyết nầy chủ trương rằng các thứ dân (Bách Việt) chỉ tản về nam sau năm 333 trước Kỷ nguyên, vậy lấy gì để làm chứng rằng dân Lạc Việt chưa có ở cổ Việt trước niên biểu đó? Cũng theo ông, chủ nhân văn hóa trống đồng là tổ tiên của dân Việt Nam, vậy sao ngày nay người Việt Nam không còn duy trì bất cứ gì của phong tục Lạc Việt, kể cả việc trọng kính trống đồng? Và hỏi ông làm sao bác bỏ được dấu vết Anh-đô-nê nơi văn hóa Đông sơn? Phải chăng chỉ có thể rằng văn hóa Đông sơn là của những người thuộc giống Anh-đô-nê, những người nầy có thể chịu một phần ảnh hưởng của văn hóa Trung quốc, nhưng không phải vì thế mà họ đã đổi bản chất của họ và có thể trở thành tổ tiên của dân Việt Nam.
Về phần ngữ học, hỏi dựa vào đâu mà quả quyết được rằng tiếng Việt Nam ngày nay là giống tiếng của người Lạc Việt thời trước, và tiếng của Lạc Việt lại giống tiếng của người dân Mân Việt trong thời Tần, thời Hán? Sự giống nhau ngày nay giữa tiếng Việt và tiếng Trung Hoa lại không có gì bảo đảm cho sự giống nhau ngày xưa, và sự người Trung Hoa ở vùng Mân Việt đến đất cổ Việt vào thế kỷ thứ tư, thứ ba trước Kỷ nguyên theo như Aurousseau chủ trương vốn không giống việc người Tàu di cư sang cổ Việt theo đà của lịch sử bắc thuộc như chúng tôi sẽ trình bày sau nầy.
Nếu năm 1964, ông Lư Sĩ Bằng tán dương Aurousseau, thì kể từ năm 1940, Claude lại đã phê bình nặng lời, cho rằng thuyết đó "thiếu khoa học". Ôn lại thuyết đó xong, ông viết một cách mỉa mai rằng:
"Thế là, một thế kỷ trước khi vị Hoàng đế sáng lập Trung quốc lên ngôi, hàng trăm nghìn người An-nam-mit, giống như những kẻ xong pha trong các cuộc Thánh chiến, tản ra trên những nẻo đường ở miền nam Nam Lĩnh để đi tìm chỗ đất Trời đã định cho họ. Dọc đường họ đã dừng lại thiết cư ở châu thổ Quảng Châu, nhưng họ thèm đất sông Hồng Hà hơn, mà đó là một nơi cách khởi điểm của họ đến chừng hai nghìn cây số."
Và Madrolle không do dự chê răng:
"Khi chép ra thiên anh hùng sử nầy, tác giả không kể gì đến những khó khăn của một cuộc hành trình băng qua những thung lũng nằm trực giác với đại dương, cũng không đếm xỉa gì đến sức phản kháng của thổ dân và tù trưởng của họ đối với lũ người phiêu bạt đói rách đó. Sau cùng, người An-nam-mit đã lập cơ sở ở châu thổ Bắc kỳ và từ đó vẫn "duy trì được tính cách tiên nguyên của nòi giống."
Madrolle đã nhấn mạnh vào ý kiến sau hết nầy và phê bình rằng:
"Vì thiếu tài liệu, chúng tôi nhận thấy hơi khó khi muốn quan niệm cho biết tính cách tiên nguyên của dân An-nam-mit đó là gì. Về mặt dân tộc học, việc khám phá những ngôi mộ cổ tỏ ra rằng dân cư châu thổ đã thay đổi từ lâu cách mai táng của họ. Về mặt nhân loại học, chúng ta không thấy người An-nam-mit, trong hình vóc có một trung bình thuần nhất. Những nhận xét đó chứng tỏ rằng thói tục đã biến thiên và không có sự duy nhất dân tộc." (14)
Ý kiến của Madrolle không phải bao giờ cũng may mắn, chẳng hạn ở chỗ ông dựa vào mức trung bình của hình vóc để luận lý. Nhưng ông rất thành công trong việc nêu lên tính cách phiêu lưu và vô căn cứ của thuyết Aurousseau. Dân nước Việt, một nước nhỏ lại bị bại trận, bị mất chủ quyền, nghĩa là bị chết nhiều, túng thiếu đủ cách, vậy mà trong vòng một thế kỷ đã có thể sinh sôi nẩy nở ra trên một khoảng đất dài hằng vài nghìn cây số, lại nổi tiếng là ma thiêng nước độc, đến nỗi nhiều lần lính tráng khỏe mạnh đến đóng đã phải mười người chết mất bốn năm. Rồi, dân đó, sau khi đã lan tràn mau chóng như thế, lại cũng đã có một tổ chức chặt chẽ, nề nếp, có vương, có quân, có thao lược, khả dĩ làm kinh ngạc năm mươi vạn quân của Tần Thủy Hoàng gửi đến. Đó phải là một chuyện tiên mộng thì đúng hơn là một chuyện sử.
Aurousseau đã kết cấu liều lĩnh như vậy, chắc chắn vì ông đã hiểu lầm một câu của Sử ký, mà ông dùng làm căn bản. Câu văn ông trích nói về số phận dân Việt ở Triết giang sau khi bị nước Sở tàn phá. Câu đó đọc thế này:
"Nhi Việt dĩ thử tán. Chư tộc tử tranh lập, hoặc vi vương, hoặc vi quân. Tản ư giang nam hải thượng." (15)
Câu đó, ông đã dịch:
"Yue à la suite de ces événements fut dispersé; les fils des perses branches (de la famille royale de Yue) luttèrent les uns contre les autres pour prendre le pouvoir, les uns devinrent rois, les autres devinrent princes. Ils occupèrent le littoral de la mer du Sud du (Tchö) Kiang." (16)
Aurousseau hiểu câu "chư tộc tử tranh lập" là con cái các ngành của hoàng gia vua Việt giành nhau quyền bính; hiểu như thế, thiết tưởng không đúng ý nghĩa và không đúng với lịch sử. Không đúng ý nghĩa vì bấy giờ đất Việt đã vào tay vua Sở, gia đình vua nước Việt đã mất quyền bính, hỏi lẽ nào mà con cái các ngành của hoàng gia vua Việt còn tranh giành quyền bính?
Lại không đúng với lịch sử, vì lịch sử cho biết rằng sự tranh giành đó là giữa các nước, chứ không phải trong gia đình vua Việt. Thật thế, Trung Quốc bấy giờ đang ở vào thời kỳ Chu mạt, một thời hết sức rối loạn. Khắp nơi trong nước Tàu, các chư hầu tranh giành nhau làm quân làm vương. Vào năm 333, chúng ta thấy đã có các vương như:
Ngụy Huệ vương 334-319
Tề Uy vương 378-333
Sở Uy vuong 339-329
Tần Huệ vương 337-325
và các công hầu như:
Lỗ Cảnh Nông 345-317
Yên Văn Công 361-333
Vệ Thành Công 361-333
Triệu Túc Hầu 349-326
Tống Dịch Thành 369-329
Hàn Chiêu Hầu
Trong chính năm 333, một số hầu quốc đang cố vươn lên hàng vương quốc, ví dụ:
Nước Yên, với Dị Vương 332-321
Nước Hàn, với Tuyên Huệ Vương 332-312 (15)
Có lẽ, đó mới là thực trạng mà Tư Mã Thiên muốn tả với câu "chư tộc tử tranh lập, hoặc vi vương, hoặc vi quân".
Một nhận xét nữa: Khi nước Việt thất bại, đâu có phải tất cả mọi người dân nước Việt đều phải bỏ nhà ra đi. Thường những kẻ nắm chính quyền hay có liên kết với chính quyền cách nầy hay cách khác trong những trường hợp như thế mới phải bỏ nước để đi ẩn thân. Bởi vậy số người nước Việt vào năm 333 phải rời đất Việt chắc cũng không có bao lăm. Do đó, có lẽ viên trưởng sử đời Đường, Trương Thủ Tiết, đã thấy rõ hơn điều Tư Mã Thiên muốn nói, khi ông ta cho rằng "chính nghĩa" của câu "tản ư Giang nam hải thượng", tức là tản về chỗ nay là Thai Châu, huyện Lâm Hải (kim Thai Châu, Lâm Hải huyện), chứ không phải lan tràn ra khắp vùng Đông Nam nước Tàu như Aurousseau nói. (18)
Và câu của Sử ký phải dịch lại như thế nầy: "Vì đó, nước Việt bị tan tác. Con cái các họ đua nhau tranh giành quyền bính, kẻ làm vương, kẻ làm quân. Lúc đó, người Việt phải tản về phía nam sống trên bờ biển".
2) Thuyết của Madrolle
Claude Madrolle là tác giả của nhiều sách hướng dẫn du lịch, như quyển Indochine du Nord, Indochine du Sud. Ông cũng đã viết một bài nghiên cứu giá trị về địa lý lịch sử của vùng cổ Việt đề là "Le Tonkin ancien". Trong bài nầy, sau khi đã cố minh định phạm vi các quận Hán, và trụ sở của các quan thứ sử, ông đã đề cập đến vấn đề dân cư và cung cấp một số ý kiến về nguồn gốc Việt Nam. (19)
Ý kiến của ông dựa vào một phương pháp có hình thức rất khoa học: Sự đo tầm vóc của dân. Đứng trên nền tảng đó, ông chủ trương rằng người Việt Nam không phải là dòng dõi dân nước Việt ở Triết Giang, mà cũng không phải là hoàn toàn ngoại lai. Trái lại, dân cư vùng châu thổ Bắc Kỳ gồm hai thành phần, một thành phần đông đảo hơn, chiếm các vùng đất cũ đó là thổ dân, và một thành phần ở vùng duyên hải, ít hơn, đó là những kẻ ngoại lai, từ vùng Phúc Kiến mà đến.
Về thổ dân, ông cho biết kết quả việc nghiên cứu của ông như sau:
"Chúng tôi không thể khảo sát mọi mặt hình thái của người dân châu thổ và chỉ chú trọng vào những con số trung bình thu hoạch được về tầm vóc; người ta thấy rằng việc nghiên cứu nầy mà thôi đã đòi hỏi rất nhiều khó nhọc.
Khi trắc lượng và xếp loại, chúng tôi có thể nhận được năm khu, mà vị trí gần như hợp với năm địa hạt hành chánh cổ: Ở Sơn Tây và vùng thung lũng sông Hồng Hà, ở vùng Phú Thọ, trung bình tầm vóc là từ 1m57 đến 1m585; ở Bắc Ninh, Hưng Yên, từ 1m60 đến 1m61; ở Hải Dương và Thái Bình, từ 1m58 đến 1m59; ở Hà Nội và Nam Định (trừ mấy huyện ở Duyên Hải) từ 1m59 đến 1m60, sau hết Ninh Bình 1m58. (20)
Khi đã nhân vào bề cao trung bình mà chia thành phần thổ dân ra làm năm khu vậy, ông có một vài nhận xét: "Chính sự chia khu nầy cũng không nói lên rằng đó là những nhóm thuần nhất; vẫn có những tổng, đôi khi những huyện, trong đó dân rất thấp, ví dụ huyện Quỳnh Côi, Bình Giang, Hưng Nhân, ở ngay giữa vùng châu thổ, về phía đông nam".
Có ý giải thích sự chênh lệch về chiều cao của tầm vóc giữa các địa phương, ông nói:
Để duy trì quyền bính, bảo vệ các trụ sở hành chánh và đường giao thông, Trung Hoa đã lập nhiều đồn. Vì có binh sĩ đồn trú thường xuyên và các đợt dân Trung Hoa di cư đến, một cách chậm chạp nhưng liên tiếp, chắc chắn việc đó đã làm cho tầm vóc của thành phần thổ dân Việt ở vùng Bắc Ninh, chỗ xưa có trụ sở hành chánh, cao thêm lên đôi tí. (21)
Hỏi thổ dân nầy là ai?
Madrolle không ngần ngại quả quyết đó là dân Lạc Việt. Và ông nói: "Chúng tôi nghĩ rằng dân An-nam-mit ngày nay là con cái trực thống của dân Lạc đời Chu, gọi là dân Giao Chỉ trong thời Bắc thuộc".
Theo Madrolle, những nơi chịu ảnh hưởng người Trung Hoa thì thân xác thổ dân cao thêm lên "đôi tí" nhưng nếu có những nơi mà tầm vóc người dân cao vượt hẳn lên, như dân vùng Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu, cao đến 1,64, thì bấy giờ phải cắt nghĩa làm sao? Ông tự hỏi "đó có phải là vùng duyên hải hưởng khí biển, có cá làm căn bản thực phẩm mà được như thế không?" Và chính ông trả lời:
"Xem ra khó chủ trương được như thế, thì tất cả dân cư miền biển đều phải có tầm vóc cao, mà thật sự họ không có. Vậy, người ta có thể kết luận rằng, dân đó không phải thổ dân, nhưng là những người đã di cư đến." (22)
Hỏi họ đã di cư đến từ đâu và trong trường hợp nào?
Ở đây Madrolle tỏ ra rất đơn sơ. Ông nói: "Nếu chúng ta đọc các tập báo nói về việc trắc lượng tầm vóc, chúng ta thấy có hai dân ở vùng Nam Hải có thể tham gia vào việc di cư đến Bắc Kỳ, vì họ cùng một tầm vóc (1m64) như dân Hải Hậu. Đó là dân huyện Trung Sơn ở phía nam Quảng Châu, nhưng huyện nầy nhỏ quá nên không chắc đã có thể di cư. Tuy nhiên, ở miền đông bắc, dọc theo bờ biển, có một dân khác, một dân hoàn toàn kẻ biển, rất có thể đã đến đặt nền tảng cho thứ người ở cửa sông Hồng Hà". (23)
Thứ dân ông nói đến đó là dân Học Lão ở Phúc Kiến, dân nầy xưa thuộc nước Mân bị nhà Tần diệt vào năm 221. Ông trích một đoạn văn của Mã Tuấn Lâm (1245-1325) nói rằng: "Người Mân thường chở hàng hóa đến buôn ở Lê Đồng (Hải Nam). Nhiều người ở lại đó không về nữa. Người Tàu đến ở giữa người Mân như vậy lại trở thành những phần tử xấu nhất trong dân". Theo ông, đó là chứng trong thời xưa, dân Học Lão đã có di cư, và vì Lê Đồng tức Hải Nam không xa bờ biển Bắc Việt bao nhiêu, nên ông đoán thế nào họ cũng phải đến đó. Đây lời ông: "Họ ở ngay ở cửa vào Vịnh Bắc Kỳ, nên họ không khỏi vượt qua Vịnh và đặt người của họ ở cửa sông Hồng Hà để sinh sống. Đối với người Bắc Kỳ, dòng dõi của họ là những Hải Hậu nhân, nghĩa là Hậu bối của những kẻ ở biển mà vào". (24)
Ông thắc mắc một điều, nhưng rồi ông cũng tìm ra được cách giải đáp. Theo ông, người lạ đến ở, tất dân bị xáo trộn và đó là một biến cố lớn, vậy sao không có ghi lại gì cả trong sử sách? Lại, sao không có dấu vết gì của thứ ngôn ngữ riêng. Ông đáp: "Nếu sử sách không ghi, đó là vì biến cố xảy ra trong một thời xa xưa; bấy giờ vùng châu thổ đang bị phân chia thành từng miếng nhỏ, để làm mồi cho những kẻ xâm lăng. Nếu họ không còn duy trì ngôn ngữ của cha ông họ, đó là vì kể từ khi di cư đến, họ đã có đủ thì giờ để tập nói được tiếng của láng giềng họ, quen thuộc với phong tục những người đó, nói tắt là để bị Việt Nam hóa." (25)
Trở lên là đại khái của thuyết Madrolle, bây giờ đến lúc thử đánh giá thuyết của ông.
Trước hết, nguyên tắc căn bản của thuyết, sự do tầm vóc, đã không có một giá trị căn bản nào. Thật thế, theo sự nhận xét thông thường, tầm vóc đâu phải là một yếu tố di truyền, hằng cửu, không thay đổi qua thời gian. Trái lại nó có thể thay đổi từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, đôi khi thế hệ sau đã cao hơn thế hệ trước nhiều. Vì vậy, nếu chỉ đưa vào sự kiện tầm vóc cao hay thấp khác nhau mà quả quyết người nầy thuộc về loại nầy, người kia thuộc về loại khác, thì thiết tưởng thật là liều lĩnh. Nhưng người ta sẽ liều lĩnh hơn khi người ta đi giở những bảng thống kê độ cao của tầm vóc thuộc những người ở những địa phương xa nhau để tìm liên lạc tộc thuộc giữa những hạng người có cùng một tầm vóc. Và người ta sẽ liều lĩnh hết chỗ nói khi người ta đi tìm tộc thuộc như vậy giữa những dân thuộc thế kỷ 20 để chỉ về một thời kỳ cách đây ít nhất cũng phải hơn hai mươi thế kỷ, nghĩa là lúc nước Mân Việt còn chưa bị nhà Tần tàn phá.
Rồi còn vấn đề sinh sản. Nay số dân ngoại lai chỉ vèn vẻn có mấy nơi như Hải Hậu, Giao Thủy, Xuân Trường, thì hỏi cách đây hơn hai mươi thế kỷ, số dân đầu tiên di cư đến là bao nhiêu? Có lẽ chỉ một vài nhà, mà một vài nhà như vậy làm sao có thể giữ được ý nguyện tầm vóc, cho rằng tầm vóc có thể giữ được ý nguyện? Hỏi hai nhà đó cứ tiếp tục kết hôn với nhau đời nầy qua đời khác sao? Thật không thể nào họ có đủ điều kiện để làm như thế.
Rồi lại còn vấn đề địa lý. Xét theo địa tính của vùng đất ở cửa sông Hồng Hà, hỏi cách đây hơn hai mươi thế kỷ, những nơi như Giao Thủ, Xuân Trường, Hải Hậu đã được bồi lên chưa, hay chỉ còn là biển cả? Mà nếu có bồi lên rồi đi nữa, hỏi đã có thể ở được chưa?
Bấy nhiêu hớ hênh đã thừa đủ để nói lên rằng thuyết của Madrolle không thể nào có bảo đảm được.
Sở dĩ Aurousseau, Madrolle, Lu Shih-Peng không giải đáp được vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đó là vì các ông bị sa lầy không nhiều thì ít vào trong tư tưởng của các sử gia chính thống. Nạn nhân của những chương đầu trong phần ngoại kỷ của bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, họ lẩn quẩnvới những ý kiến cho rằng gốc tích người Việt Nam rất xưa, đất nước Việt Nam rất rộng, và như thế, từ Việt Nam (Đại Việt) họ đã lùi về Lạc Việt, rồi từ Lạc Việt họ lùi về Nam Việt, và từ Nam Việt hộ lùi về nước Việt ở vùng Triết Giang, hay nước Sở ở trên bờ sông Hán hay một nước tưởng tượng nào đó như Văn Lang, Xích Quỷ. Người có học đã như thế, thảo nào người ít quen biết với lịch sử, thường nói ra là buột miệng hô hào rằng Việt Nam có những bốn nghìn năm lịch sử. Như thế, chính ra là khinh mạn lịch sử.
Lịch sử, không phải là một công trình điểm xuyết để suy tôn một chế độ, hay một dân tộc mà trái lại, nó là thời sự quá khứ thuật lại bởi những chứng tích có bảo đảm. Vậy mà, khi dựa vào chính loại chứng tích nầy, người ta sẽ thấy nguồn gốc nước Việt Nam không xa lắm, quốc thống Việt Nam không xưa lắm, mặc dầu không vì đó mà mảy may kém vẻ uy hùng tráng lệ.