CHƯƠNG THỨ TÁM CHÍNH TRỊ CỔ VIỆT DƯỚI THỜI BẮC THUỘC-
Hoàn thành công việc thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng (246-210 trước K.N.) đã bước thêm một bước nữa trên đà Nam Tiến. Năm 214, ông sai đại quân đi chinh phục miền Ngũ Lĩnh, lập ra các quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Theo địa đồ ngày nay, thì Nam Hải nằm vào vùng Quảng Đông, Quế Lâm nằm vào vùng Quảng Tây, còn Tượng thì không rõ. Quận Tượng, theo như tên của nó có thể cho biết, phải là cả vùng núi non bao la trùng điệp về phía Tây nam, thế giới của hoang thú, nhất là VOI. Có lẽ nó có nghĩa là một lãnh thổ rộng lớn cần được chinh phục, hơn là đã bị chinh phục thực sự. (1)
Đến đời Tần nhị thế (209-207), Trung Quốc hỗn độn. Để tránh loạn ly, các nhà cầm quyền địa phương ai cũng nghĩ đến việc tự lập, trước là bảo vệ phần đất mình có bổn phận phải phòng giữ, sau là nuôi hy vọng gặp được cơ hội tốt để gầy dựng nghiệp lớn. Viên Hiệu úy được nhà Tần đặt lên coi quận Nam Hải là Nhâm Ngao, cũng nghĩ như vậy. Không may ông lâm trọng bệnh, và phải giao quận Nam Hải cùng ý định to tát của ông lại cho viên lệnh Long Xuyên (thuộc quận Nam Hải), là Triệu Đà. Nhâm Ngao mất rồi, Triệu Đà, nay đã mang chức Hiệu úy Nam Hải, chuẩn bị việc thiết lập nước mới. Năm 207, ông xưng vương, đặt cho khu vực ông cai trị là nước Nam Việt, gồm quận Nam Hải, rồi quận Quế Lâm, và cả quận Tượng, tức là miền bao la phải chinh phục ấy nữa. (2)
Vậy, để chinh phục, một năm nào đó không được rõ, Nam Việt vương đến vùng cổ Việt và đánh bại Thục vương tử, con người bấy giờ đang cai trị dân Lạc Việt. Nói rằng ông chiếm vùng đất mới nầy, nhưng ông không trực tiếp cai trị và chỉ sai sứ đến gọi là có sự hiện diện vậy thôi, chứ tất cả việc hành chánh vẫn còn nằm trong tay các Lạc tướng. (3)
Nhưng, không lâu sau, toàn cõi Trung Quốc đã thu về quyền một người hùng là Lưu Bang, một nhà tướng và là một chính khách. Khởi nghĩa từ Hán Trung vào năm 206 trước K.N., ông đã hùng dũng bành trướng thế lực, hạ được hạng Võ, lên ngôi Thiên tử, lập ra nhà Hán, một triều đại lâu nhất trong lịch sử nước Tàu (202).
Vào năm 196, Hán Cao Tổ (202-195) đã cho sứ mở đường giao hiếu với Triệu Đà và phong cho ông nầy làm Nam Việt vương. Đến thời Võ đế (140-87), một vị vua vừa khôn ngoan vừa cương quyết, nhà Hán định tâm nới rộng quyền hành. Sau khi sai tướng Vệ Thanh đi đánh vùng tây bắc và lập thêm các quận Võ Uy, Tửu Tuyền, Thuần Hoàng, Thiên Triều lại sai tướng Lộ Bác Đức, với chức Phục ba tướng quân, đi đánh vùng Nam Việt, và lập các quận ở bờ Giao Chỉ (năm III trước K.N.) (4)
1. Chính trị thời Hán (202 trước K.N. đến 220 sau K.N.)
Trong thời Tây Hán, hay nói cho rõ hơn, từ khi nhà Hán thiết lập quận huyện ở cổ Việt, cho đến loạn Vương Mãng (9-22), việc cai trị không để lại nhiều tài liệu. Chúng ta không biết được rõ ràng về chính sách cũng như về những người cầm quyền. Giữ chức thứ sử, tức là chức cai trị toàn bộ, chỉ thấy có những tên như Thạch Đái, Chu Chương, Đặng Nhượng. Giữ chức thái thú, nghĩa là chức quan coi một quận, có các ông Tích Quang ở Giao Chỉ, Nhâm Diên ở Cửu Chân, hai người nầy đã từng để lại những thành tích tốt. (5)
Trong thời Đông Hán, những tên như Tô Định, thái thú Giao Chỉ, vả Mã Viện, vị Phục ba tướng quân đánh bại hai bà Trưng, đã được nói đến nhiều trong chương "Lịch sử Lạc Việt". Cũng trong thời nầy, lịch sử có ghi lại một số người và một số việc đáng lưu ý nữa. Về người chúng ta có Giả Tùng, Sĩ Nhiếp, về việc chúng ta có loạn Lâm Ấp, loạn Ô Hứa.
a) LOẠN LÂM ẤP
Dưới thời Hiếu Thuận đế (126-144), ở quận Nhật Nam, có người thủ lĩnh của dân Lâm Ấp tên là Khâu Liên đến đánh phá. Đây là lần đầu tiên lịch sử nói đến thứ dân nầy. Trong dịp đó, viên trưởng lại huyện Tượng Lâm bị giết. Thứ sử Giao Chỉ lúc bấy giờ là Phàn Diễn, lấy quân các quận Giao Chỉ và Cửu Chân có ý vào tiếp cứu Nhật Nam. Nhưng binh sĩ ngại đi đánh giặc xa, nên vào tháng 7 năm Vĩnh Hòa thứ hai (137) họ nổi loạn chống với cấp chỉ huy. Tuy loạn quân ở phủ đã bị Phàn Diễn dẹp yên, tình hình ở Nhật Nam càng thêm trầm trọng.
Năm sau, vào tháng năm, Ngự sử Giả Xương, chỉ huy lực lượng của bộ Giao Chỉ vào đánh Khâu Liên, không may ông bị địch bao vây, hơn một năm không sao liên lạc tiếp tế được. Nếu binh sĩ đồn trú ở Giao Chỉ không đủ sức dẹp loạn, có nhất định phải cất đại quân ở các quận khác sang không? Đang khi triều đình nhà Hán bàn cải về vấn đề đó, và có người đã đem ra ý kiến lấy bốn vạn quân ở các châu Kinh, Dương, Duyện, Dự, giao cho một vị đại tướng để đi chinh phạt, Lý Cổ lại có những đề nghị rất thiết thực và hữu hiệu. Theo ông, không nên dùng võ lực cho bằng dùng chính trị. Để bác bỏ đề nghị dùng võ lực, ông trình bày bảy lý lẽ sau đây:
1) Ở các châu Kinh, Dương, Duyện, Dự, tình hình chưa yên ổn.
2) Dân các châu đó đã bị động viên nhiều lần nay nếu ép họ tòng chinh nữa, lại bắt họ đi không hẹn ngày về, chắc chắn họ sẽ chống lại.
3) Miền nam nóng bức, đầy choáng khí, quân đến không quen thủy thổ, mười người sẽ mất bốn năm.
4) Đường đi mệt nhọc, khi đến nơi, quân không còn sức để chiến đấu.
5) Đường tiếp tế khó khăn, sáu chục vạn hộc gạo chưa thấm vào đâu.
6) Quân sở tại không thể chống cự được mà đem quân của triều đình sang, ấy là như lấy lòng ruột mà che chân tay.
7) Quân Cửu Chân ở gần, mà còn chưa chịu đi, thì sao quân ở xa lại chịu đi?
Lý Cố nói chỉ cần chọn những người dũng lược, nhân huệ, đặt làm tướng soái sai sang Giao Chỉ, và những người nầy sẽ điều khiển lực lượng địa phương để chống cự. Trước hết phải di cư dân và quan ở Nhật Nam ra tạm trú tại Giao Chỉ, rồi mộ người man di đánh lại với người man di. Ông đề nghị chọn cựu thứ sử Nam Dương là Trương Kiểu làm thứ sử, và cựu thứ sử Trường Sa là Chúc Lương làm thái thú Cửu Chân vì cả hai đều có kinh nghiệm nhiều. (6)
Hán triều đồng ý với Lý Cố. Hai ông Kiểu va Lương sang cổ Việt dùng mưu lược trấn an được giặc Lâm Ấp.
Cách đó mấy năm, vào tháng 10 năm Kiến Khang thứ 5 (144), dân man di ở Nhật Nam lại nổi dậy, đốt phá quận huyện. Thứ sử Giao Chỉ là Hạ Phương, người Cửu Giang, dẹp yên được. (7)
b) LOẠN Ô HỨA: HAY GIAO CHỈ BỘ TRƯỚC THỜI SĨ NHIẾP
Ở các quận Hợp Phổ và Giao Chỉ có loại dân man gọi là dân Ô Hứa. Năm đầu hiệu Quang Hòa (178) đời Hán Linh đế (168-188) dân nầy đứng lên chống chính quyền Trung Quốc. Dân man di ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam cũng nổi dậy hưởng ứng. Cả bộ Giao Chỉ nơi nơi đều bị quấy phá, mà nhà chức trách thì nhu nhược, đánh dẹp không nổi, để cho tình trạng kéo dài năm nầy qua năm khác.
Cũng trong thời đó, đang khi thái thú Nam Hải là Khổng Chi làm loạn, thì ở quận Giao Chỉ lại có tên Lương Long kéo theo hàng vạn người công khai cướp bóc quận huyện. Bấy giờ Hán triều đặt Chu Tuấn làm thứ sử Giao Chỉ. Ông là người có tài, giỏi về lối liệu biện công việc. Khi ra đi nhậm chức, ông đã mộ năm nghìn gia binh đi với ông. Đến cương giới bộ Giao Chỉ, ông dừng lại để dò xét tình hình rồi chia quân làm hai đạo tiến vào. Tại bộ, ông truyền hịch đi khắp nơi tuyên dương uy đức nhà Hán, hợp quân của ông với quân của bảy quận đánh phá bọn loạn tặc. Ông giết được Lưu Long, đẹp được loạn Ô Hứa, vào mùa hạ năm 181. Bộ Giao Chỉ lại được bình an. (8)
Nhưng, những thái thú, thứ sử được đặt lên ở Giao Chỉ, phần nhiều đều có lòng tham bạo. Lấy cớ xa triều đình, họ ít sợ quyền cấp trên và do đó tìm đủ cách để bóc lột sức lao động cũng như tài sản nhân dân và thuộc hạ. Binh sĩ chẳng hạn, lắm lúc rất cực khổ. Khi họ không có thể chịu đựng nữa, họ nổi dậy làm loạn. Đó là trường hợp xảy ra năm 184, khi đạo quân đồn trú ở Giao Chỉ xông vào bắt giam quan thứ sử, cùng quan thái thú Hợp Phổ.
Thấy những cảnh tượng như thế, tất Hán triều phải cố tìm cho được một người hết sức liêm khiết để gửi sang Giao Chỉ. Người được chọn tên là Giả Tung và ông nầy đã được lịch sử chứng minh là một nhà cầm quyền đáng khen. Hiểu rõ bổn phận cũng như quyền lợi của chức vụ, ông đã hiên ngang đến nhiệm sở mới. Binh sĩ và đại chúng tỏ ra chóng tin tưởng ông. Có kẻ đã không ngần ngại cho ông biết nguyên nhân của những cuộc nổi loạn về trước. Họ nói: "Thuế má nặng quá, trăm họ đều túng thiếu, mà kinh sư lại xa xuôi không biết kêu thân vào đâu. Vì vậy, khi dân không thể nào sống được nữa, họ phải tụ tập ăn cướp". (9)
Biết vậy, Giả Tung sai cán bộ đi khắp nơi ủy dụ dân chúng, chiêu phủ những người lưu vong, tha bớt thuế má. Đồng thời ông nghiêm trị những kẻ quấy rối, chọn người tốt đặt làm việc ở quận huyện. Nhờ đó dân an phận làm ăn, không đầy một năm toàn bộ Giao Chỉ đã được ổn định. Và dọc đường sá cũng như ở bến, người ta nghe nhân dân lặp đi lặp lại mấy câu nầy:
Giả phụ lai vãn
Sử ngã tự phản
Kim kiến thanh bình
Lại bất cảm phản
DỊCH: Cha Già đến chậm
Nên ta làm phản
Nay được thanh bình
Phản đâu còn dám. (10)
c) THÁI THÚ SĨ NHIẾP (11)
Kể ra, vào cuối thời Hán, nhân vật nổi tiếng hơn cả trong việc cai trị cổ Việt, phải là Sĩ Nhiếp. Ông đã quen biết với vùng đất nước nầy trước khi nhà Hán đặt ông làm thái thú Giao Chỉ, vì thân phụ ông, tên là Tứ, đã từng làm thái thú Nhật Nam trong thời Hoàn đế (147-167).
Lúc con nhỏ, Sĩ Nhiếp đã được cha mẹ cho đi du học ở Lạc Dương. Thầy ông là những bậc danh nho, như Lưu Tử Kỳ, người Dĩnh Xuyên. Ông thông thạo sách Tả thị xuân thu, thi đậu hiểu liêm, được bổ làm Thượng thư lang. Sau một thời gian cư tang thân phụ, ông được đổi sang Giao Chỉ với chức thái thú. Chức vụ nầy, ông đã hoàn tất trong vinh dự mãi cho đến khi ông mất, vào năm 225.
Ông là người có tài, rất được thiên hạ qui phục. Cấp trên tin cậy ông, thường nghe các điều ông đề nghị. Bấy giờ thứ sử Châu Phù bị giặc giết, trong các quận loạn lạc cực khổ. Ông tâu xin Hán triều cho ba người em ông làm thái thú, em Nhất ở Hợp Phổ, em Vỹ ở Cửu Chân, em Vũ ở Nam Hải. Chính ông cũng là người đã cùng thứ sử Trương Tân xin đổi Giao Chỉ bộ ra Giao Châu và triều đình đã nghe.
Bấy giờ là một lúc giao thời. Nhà Hán đang buổi suy vi, nên ở miền nam ai cũng muốn lên mặt làm quyền. Khi thứ sử Trương Tân bị Khâu Cảnh giết, Luu Biểu ở Kinh Châu tự ý sai Lại Cung đến thay. Cùng lúc đó, thái thú Thương Ngô cũng sai Ngô Cự đến. Rồi nhà Hán được tin Trương Tân không còn, lại biên tỉ thư sang cho Sĩ Nhiếp, đặt ông lên chức đó. Như thế, cùng một lúc, Giao Châu có đến ba thứ sử. Trong khi Sĩ Nhiếp một mực trung thành với Hán Hiến đế, Cự và Cung xung đột nhau, khiến Cung phải bỏ về Linh Lăng. Đến năm 210, khi nhà Hán đã mất quyền ở miền nam, Tôn Quyền nhà Ngô sai Bộ Chất đến giữ chức thứ sử. Sĩ Nhiếp liền phục mệnh, đem bộ hạ ra đón rước người đại diện của chúa mới. Ngô Cự do dự nên bị Bộ Chất giết.
Trong buổi giao thời đó, Sĩ Nhiếp chẳng những đã tỏ ra là một nhà chính trị thích thời, mà ông còn đóng vai một chủ nhân đại lượng, biết tôn trọng và nâng đỡ nho gia. Nhiều nhà trí thức và chính khách Trung Quốc, khổ tâm vì cảnh loạn ly ở quê nhà, đã sang Giao Chỉ nương nhờ vào Sĩ Nhiếp để có thể giữ trọn niềm trung. Với khách hào hoa lui tới, với của cải chứa chất lại sau bao nhiêu năm cầm quyền, ông đã có thể sống một cuộc đời vương giả ở đất Liên Lâu.
Thời Sĩ Nhiếp cai trị Giao Chỉ, cũng là một thời thịnh vượng cho dân trong quận. Mọi người đã yên ổn làm ăn. Không mấy ai phải thất nghiệp cực khổ. Thảo nào, sau khi ông mất, thọ 90 tuổi, đại chúng đã đồng tâm tôn ông là Sĩ vương, và thờ ông như một vị thần thiêng.
II. CHÍNH TRỊ THỜI NGÔ (220-279)1) Sĩ Huy và Lữ Đại (12)
Nếu Sĩ Nhiếp là một thái thú hội được nhiều điểm tốt, thì Sĩ Huy con ông hội được nhiều điểm xấu, như làm loạn tặc, tham lam và táo bạo. Mộng của Huy là được nối nghiệp cha ở Giao Chỉ, không ngờ nhà Ngô lại quyết định khác. Ngô Chúa đặt ông làm thái thú Cửu Chân còn quận Giao Chỉ thì lại giao cho Trần Thời. Phật ý, trước khi Trần Thời và viên tân thứ sử là Đái Lương đến, ông đã đem quân chiếm giữ Giao Chỉ. Thấy thế, Thời và Lương không dám vào Giao Châu.
Không phải mọi người chung quanh Sĩ Huy đều đồng ý với ông trong chương trình phản loạn. Một người trước kia đã làm việc với Sĩ Nhiếp là Hoàn Lân, khẩn khoản xin Huy hạ mình xuống đi đón Đái Lương, Huy tức giận giết chết Lân. Bấy giờ anh của Lân là Trị và con là Phát hợp người trong họ lại để đánh Huy. Hai bên cầm cự nhau mấy tháng, cuối cùng thấy không ai được bèn giảng hòa.
Trong lúc đó, Lữ Đại, thứ sử Quảng Châu, được lệnh nhà Ngô sang bình định Giao Châu thay cho Đái Lương. Đại đã dùng mưu, và có thể nói là mưu gian, để thắng Huy. Ông quen với Khuông, con của Nhất (Nhất nầy là chú của Huy), nên dùng Khuông để thuyết phục Huy đầu hàng, bảo rằng, nếu Huy hàng đi thì chỉ mất quyền cai trị quận, chứ khỏi lo về các mặt khác. Huy nghe và cả sáu anh em ra đầu thú với Đại. Không ngờ, Đại đem cả sáu người ra giết, gửi đầu về Vũ Xương. Những người bà con khác của Huy, như Nhất, Vỹ và cả Khuông nữa, đều bị truất xuống làm thứ dân, rồi sau hầu hết đều bị giết.
Thắng được loạn Sĩ Huy, Lữ Đại hợp Quảng Châu lại với Giao Châu làm một đơn vị hành chánh, lấy tên Giao Châu, và đứng đầu làm thứ sử. Ông cai trị mãi cho đến năm 231, tức là năm thứ ba hiệu Hoàng Long, mới được lệnh gọi về cầm quân ở Ẫu Khẩu, thuộc Trường Sa.
2) Những An Nam tướng quân (13)
Viên quan được chức An Nam tướng quân đầu tiên tên là Lục Duệ. Vào năm II hiệu Xích Ô (248), ở Giao Chỉ và Cửu Chân có loạn. Tôn Quyền sai Lục Duệ sang làm thứ sử Giao Châu. Chính khi Duệ đã ổn định được tình thế, Ngô Chúa đã ban cho ông chức trên.
Lữ Hưng cũng đã được chức đó trong một trường hợp khác.
Trong hiệu Vĩnh An (258-264), Tôn Hựu đặt Tôn Tư làm thứ sử Giao Châu. Tư giở lại cái trò của các ô quan tham lại về trước, và bóc lột dân. Lòng công phẩn đã dâng lên tràn ngập. Bấy giờ lại có sứ giả của Ngô Chúa là Đặng Tuân đến Giao Chỉ. Khi ra về ông định mang về ba chục khổng tước. Dân sợ phải đi đường xa lo việc chuyên chở cho Tuân, nên cùng nhau mưu loạn. Thấy thế, một đàng để thỏa mãn lòng căm tức của đại chúng, và cũng là để làm tròn những ước muốn riêng, Lữ Hưng, một viên quận lại, đứng lên cả Tuân lẫn Tư. Các quận Cửu Chân và Nhật Nam đều lên tiếng ủng hộ Hưng.
Sao một viên quận lại có thể làm được một việc lớn như thế? Ông làm được thế không phải chỉ vì muốn phản đối lòng tham nhũng của các thượng quan mà thôi, mà còn vì lý do chính trị. Nhìn vào thời cuộc bấy giờ, chúng ta thấy các nhà Ngô, Ngụy, và rồi Tấn, đang giành nhau quyền bính. Ở các châu quận, trong giới quan chức, kẻ thì ủng hộ nhà nầy, người lại ủng hộ nhà khác. Trong lúc Tôn Tư và sứ Đặng Tuân là người của nhà Ngô (sứ Đặng Tuân đến Giao Chỉ chính là với mục đích củng cố quyền bính nhà Ngô), thì Lữ Hưng lại muốn làm thần tử của nhà Ngụy. Theo ý Hưng, việc Tuân đến đã là một nguy hại cho uy thế nhà Ngụy rồi, Tuân lại còn làm việc thất nhân tâm nữa, thảo nào ông không cương quyết ra tay. Khi hạ được những địch thủ chính trị đó, Lữ Hưng tức tốc dâng biểu về nhà Ngụy xin gửi người cai trị và lực lượng sang.
Để xác nhận công trạng của Lữ Hưng, nhà Ngụy liền ban cho ông chức An Nam tướng quân, đô đốc Giao Châu chư quân sự, và gửi sang cổ Việt với chức thứ sử một vị cựu giám quân tên là Hoắc Dực. Dực chọn Phàn Cốc làm thái thú Giao Chỉ, và đem theo một số binh sĩ, cùng những viên gia môn như Đổng Nguyên, Mao Quýnh, Mạnh Thông, Thoán Năng, Lý Tùng, Vương Tố, có ý để giúp Hưng.
Không may khi bạn bè chưa đến kịp, Lữ Hưng đã bị phe nghịch giết. Vương Thống, người của nhà Ngô, đã hạ Hưng để báo thù cho Tuân và Tư. Trong trường hợp nầy, (năm 265), Nguyên để Hoán nhà Ngụy bị Tư Mã Yên truất phế để lập ra nhà Tấn, nên những người trước kia đứng về phía nhà Ngụy để chống nhà Ngô, từ nay lại quay theo nhà Tấn. Tấn Võ đế (265-289) tiếp tục, nhận cho Phàn Cốc cai trị quận Giao Chỉ, rồi khi Cốc mất, đặt Mã Dung lên thế, và khi Mã Dung chết, lại đặt Dương Tắc thay.
Nhà Ngô, mặc dầu đang trên đường suy vi, cũng không thể ngồi yên để cho kẻ khác chiếm mất một vùng đất nước. Ngô Chúa Hạo (264-279) sai Lưu Tuấn sang làm thứ sử Giao Châu để cùng với đại đô đốc Tư Tắc và tướng quân Cố Dung đánh Dương Tắc.
Mùa đông năm thứ tư hiệu Thái Thủy nhà Tấn (268), phe nhà Tấn và phe nhà Ngô giao chiến. Lúc đầu phe nhà Tấn thắng. Dương Tắc thắng được đối phương nhờ sự ủng hộ của các quận Uất Lâm và Cửu Chân. Thủ hạ của Dương Tắc, bọn Mao Quýnh, Đổng Nguyên giết được Tu Tắc và Lưu Tuấn tại Cổ thành ở Hợp Phổ, và vì đó Mao Quýnh được đặt làm thái thú Uất Lâm, Đổng Nguyên làm thái thú Cửu Chân.
3) Đào Huỳnh (14)
Sự thắng trận của phe Dương Tắc không được lâu bền, vì nhà Ngô đang chuẩn bị một cuộc tiến binh quyết liệt. Ngay từ cuối năm 269, Ngô Chúa Hạo đã phân phối công tác cho các tướng sĩ:
- Giám quân Ngu Dĩ, Uy Nam tướng quân Tiết Vũ, thái thú Thương Ngô Đào Huỳnh, chỉ huy một đạo quân tiến theo đường Kinh Châu,
- Giám quân Lý Đỉnh, đô đốc Từ Tôn, chỉ huy một đạo quân khác tiến theo đường Kiến An ra bể,
- Cả hai đạo sẽ hợp nhau sang Giao Châu diệt Dương Tắc.
Đầu năm thứ hai hiệu Thái Thủy nhà Tấn (271), chiến tranh tiến vào giai đoạn ăn thua. Hai bên đánh nhau một trận lớn ở Phần Thủy, phe nhà Ngô bị chết mất hai tướng khiến Đào Huỳnh phải rút về Hợp Phổ. Bị Tiết Vũ khiển trách, ban đêm Đào Huỳnh bèn xuất kỳ bất ý đánh được Đổng Nguyên một trận, cướp được nhiều bảo vật. Quân nhà Ngô nhờ đó lên tinh thần. Lối tháng tư, Đào Huỳnh dẫn quân tiến vào Giao Chỉ. Nguyên chận đánh. Huỳnh đặt phục binh giết được Nguyên, khiến Dương Tắc phải đặt Vương Tố lên thay làm thái thú Cửu Chân.
Huỳnh mà thắng được Nguyên cũng là nhờ sự giúp đỡ của một viên tướng Phù Nghiêm tên là Lương Kỳ. Huỳnh đã lấy những bảo vật cướp được của Đổng Nguyên ở Hợp Phổ dâng cho Kỳ để mua ông và ông đem hơn một vạn quân về giúp. Vào tháng năm, Huỳnh vây hãm thành Giao Chỉ. Ở trong thành, Dương Tắc và Mao Quýnh kiệt lương, cùng sức, cả hai đều bị bắt. Huỳnh thấy Mao Quýnh dũng kiện, muốn giữ lại, nhưng liền bị Mao Quýnh mưu sát, bèn đem giết đi làm mốt với Tắc. Khi thành Giao Chỉ thất thu rồi, Vương Tố cố trốn đi theo đường biển, nhưng cũng bị bắt giết. Cửu Chân và Nhật Nam đều hàng nhà Ngô.
Vì sự nghiệp vừa thâu hoạch được, Đào Huỳnh được đặt làm thứ sử Giao Châu. Ông cũng dẹp được dân man Phù Nghiêm và lập ra các quận Võ Bình, Tân Xương. Vùng hoang rậm giữa Cửu Chân và Nhật Nam từ trước đến nay là chỗ dân man di ở, Huỳnh cũng lập thành một quận mới, tức là Cửu Đức. Dân chúng rất mến phục ông. Khi Ngô Chúa muống đem ông đi làm đô đốc Vũ Xương để thái thú Hợp Phổ là Tu Doãn sang thay, dân đã kêu xin được ông ở lại.
Năm đầu hiệu Thái Khang (280) đời Tấn Võ đế (265-269), Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn. Qui mệnh hầu Hạo sai con của Đào Huỳnh là Đào Dung cầm một phong thư do chính ông viết sang Giao Châu khuyên Huỳnh bằng lòng đổi chủ. Huỳnh đau đớn khóc mấy ngày rồi thuận gửi ấn về nộp nhà Tấn. Võ đế giữ ông ở chức cũ và phong cho ông tước Uyển lăng hầu cùng làm Quan quân tướng quân. Ông còn cai trị Giao Châu 20 nữa mới mất. Tấn thư ghi rằng khi tống táng ông, người trong châu thương tiếc như mất cha mất mẹ vậy.
III. CHÍNH TRỊ THỜI TẤN (265-420)1) Những người kế vị Đào Huỳnh (15)
Tấn đế chọn Ngô Ngạn thế Đào Huỳnh. Không lâu sau, binh sĩ ở Cửu Chân nổi dậy trục xuất thái thú. Người đứng đầu loạn quân là Triệu Chỉ đem lực lượng bao vây quận thành. Ngô Ngạn dẹp yên được. Ông cai trị Giao Châu hơn hai mươi năm rồi dâng biểu xin đổi đi.
Người được đặt thay Ngô Ngạn là Cố Bí. Bí là người nhân từ, trị dân một cách liêm khiết. Khi ông mất, dân yêu cầu con ông là Cố Sâm nhận lãnh công việc trong châu. Không may Sâm cũng mất. Một người con khác của Bí là Cố Thọ đệ đơn lên triều đình xin nối nghiệp Sâm. Triều đình chấp thuận, nhưng dân chúng lại không bằng lòng. Không chịu được lời chỉ trích, Thọ giết mất một trưởng lại tên là Triệu, và còn toan giết một tùy tướng tên là Lương Thạc. Thạc trốn chạy nên thoát được. Ông nầy cất binh đánh, và bắt được Thọ. Chính mẹ của Thọ bảo người cho uống thuốc độc chết. Bấy giờ Đào Uy, con của Đào Huỳnh làm thái thú Thương Ngô, Thạc bên mời lên làm thứ sử. Về sau, em của Đào Uy là Đào Thục, và con là Đào Tuy, đều có giữ quyền ở Giao Châu.
Lương Thạc được đặt làm thái thú Tân Xương đã tự tiện đến làm thái thú Giao Chỉ. Bấy giờ Vương Đôn làm Trấn đông đại tướng quân, coi các châu Kinh, Hoài, Giang, Tương, Quang, Giao. Khi Vương Cơ đã xin được Vương Đôn cho sang làm thứ sử Giao Châu, Thạc chận lại, không cho vào. Thay vì công nhận Cơ, Thạc đã mời Tu Trạm, con của Tu Tắc về cai trị châu. Bấy giờ Vương Đôn lại đặt Vương Lượng làm thứ sử. Lượng đến, Trạm trốn vào Cửu Chân. Sau Trạm bị dụ vào tay Lượng và bị giết.
Lượng cũng tìm cách tiêu diệt Thạc, nhưng không được. Để trả thù, Thạc cất binh bao vây thành Long Biên, rồi vào bắt Lượng, cố cướp cho được cờ tiết. Vì Lượng không giao, bị Thạc chém đứt tay. Lượng nói: "Chết còn chưa sợ, thì chặt tay mà làm gì?". Sau đó mấy hôm, Lượng mất. Thạc còn lại một mình tha hồ chuyên quyền trong châu. Ông ăn ở hung bạo làm cho mọi người đều ghét.
Tình trạng chính quyền ở Giao Châu sau Đào Huỳnh, đã phản ảnh tình trạng đau buồn của triều nhà Tấn, một triều đại trong đó anh em họ hàng chém giết nhau một cách tàn tệ, không phải vì mục đích bảo vệ một chí hướng chính trị, hay một ý nghĩa cao cả nào, mà chỉ là để giành giật ngai vàng.
2) Đào Khản và Đổ Viện (16)
Đào Khản làm thứ sử Quảng Châu. Thấy Giao Châu hổn độn có lần ông đã can thiệp vào một cách gián tiếp. Chính ông đã cho người dụ Tu Trạm vào tay Vương Lượng. Khi Vương Lượng bị Lương Thạc vây đánh, ông cũng đã chuẩn bị sang cứu Lượng, nhưng chưa làm kịp, Lượng đã thua.
Năm 323, được tin Lượng chết, Đào Khản được gửi sang thay. Ông sai tham quân Cao Báu đi dẹp Lương Thạc. Báu thắng, giết được Thạc. Đào Khản bèn được chức Giao Châu thứ sử, hiệu Chính Nam Đại tướng quân, có quyền mở phủ nghị. Không được bao lâu, viên Lại bộ lang Nguyễn Phóng xin đuoc triều đình cho làm thứ sử Giao Châu. Cố nhiên Phóng chạm trán với Khản. Gặp Báu đem quân đến nghinh chiến ở Ninh phố, Phóng mở tiệc đãi Báu đồng thời đặt phục binh giết được Báu. Không ngờ quân của Báu xông đánh mạnh, Phóng phải bỏ chạy mới thoát thân. Sau Đào Khản nhường chức cho Phóng, nhưng ông nầy đến châu chưa được bao lâu đã chết.
Sau Đào Khản, trong thời nhà Tấn, còn một vài nhân vật nên biết nữa, đó là Đỗ Viện và Đỗ Tuệ Độ, hai cha con, sinh trưởng ở đất Giao Châu.
Bấy giờ là năm 380, trong đời Hiếu Võ đế nhà Tấn (373-396). Ở Cửu Chân có thái thú Lý Tốn lộng hành, nổi dậy chiếm cứ châu. Đỗ Viện, làm thái thú Giao Chỉ, không hùa theo loạn đảng. Ông đánh giết Lý Tốn và cả châu lại được yên. Khi Viện mất, triều đình đặt con ông là Đỗ Tuệ Độ làm thứ sử Giao Châu.
Lúc đó, ở Quảng Châu có loạn, Lư Tuần đang bao vây Phiên Ngung đã bị Điền Tử đánh bại, chạy lên Thương Ngô. Ở đây Tuần bị bại nữa, bèn chạy sang Giao Chỉ. Đỗ Tuệ Độ đem lực lượng đón đánh Tuần ở Thạch Kỳ. Tuần thua to, nhưng được dư đảng của Lý Tốn là Lý Thoát tụ họp dân lý liêu gồm tất cả những năm nghìn người để ủng hộ Tuần. Quân của Tuần kéo đến phía nam Long Biên. Tuệ Độ bèn đem hết của cải phân phát cho binh sĩ để thúc giục họ hăng hái giáp trận. Lực lượng của Tuần không mấy chốc đã bị tan rã. Biết không sao khỏi chết, Tuần gọi đoàn thê thiếp lại hỏi xem ai sẵn lòng cùng chết với ông. Đa số đáp: "Chim, chuột còn muốn sống, việc chết theo thật là khó". Nhưng cũng có người nói: "Quan thượng còn phải chết thì ai còn muốn sống". Ông bèn giết hết, rồi gieo mình xuống sông. Tuệ Độ chém đầu ông đầu Lý Thoát, tất cả bảy người, rồi gửi về Kiến Khang.
3) Giao Châu với Lâm Ấp (17)
Trong thời Tấn, dân Lâm Ấp nhiều lần quấy nhiễu Giao Châu.
Năm thứ hai hiệu Hàm Thông (336), vua Lâm Ấp là Phạm Dật chết, Phạm Văn lên thế. Văn là một người có tính hiếu chiến. Năm 347, ông đem quân đánh Nhật Nam, giết mất thái thú Hạ Hầu Lãm, cùng với năm, sáu nghìn dân. Những người sống sót phải chạy ra Cửu Chân. Văn lấy xác của Lãm tế trời, phá thành Tây Quyền, rồi cho sứ giả ra xin thứ sử Châu Phù cho mở cương giới Lâm Ấp ra đến Hoành Sơn. Châu Phù không trả lời.
Năm 348, Phạm Văn đánh Cửu Chân, dân chúng mười người bị giết hết tám, chín. Không thể nhịn nhục được lâu hơn, nên năm sau đó, viên Chinh tây đốc hộ Tất Tuấn chỉ huy lực lượng Giao Châu và Quảng Châu vào đánh bại Phạm Văn. Năm đó, Phạm Văn chết, để ngôi cho con là Phạm Hồ Đạt.
Năm thứ chín hiệu Vĩnh Hòa (353), vào tháng ba, thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu đem quân vào đánh Lâm Ấp, phá được hơn năm mươi lũy. Năm 361, thứ sử Quảng Châu là Tất Hàm cất đại quân vào đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp sợ, xin hàng. Trong đời Hiếu Võ đế (373-396), Lâm Ấp triều cống nhà Tấn. Nhưng đến năm thứ ba hiệu Long An (299), vào tháng hai, vua Lâm Ấp lại đánh phá Nhật Nam, Cửu Chân, rồi kéo ra Giao Chỉ, không ngờ bị Đỗ Viện đánh đuổi. Vào năm 413, lần nữa, Cửu Chân bị Phạm Hồ Đạt đánh. Đỗ Tuệ Độ nghinh chiến đã giết được Đạt, và Phạm Dương Mại lên làm vua Lâm Ấp. Ba năm sau, năm thứ II hiệu Nghĩa Hy, vào tháng 11, Tuệ Độ còn đánh bại một cuộc xung kích khác của Lâm Ấp. Vào năm 420, đến lượt Đỗ Tuệ mở thế công. Ông kéo quân đánh một trận rất lớn, Lâm Ấp xin hàng. Ông bằng lòng cho và tha về tất cả những người đã bị bắt.
VI. CHÍNH TRỊ THỜI TỐNG VÀ THỜI TỀTrong thời Tống (420-478), các biến cố được ghi lại không có bao nhiêu. Việc đáng kể hơn cả, có lẽ cũng chỉ là chiến tranh với Lâm Ấp. (18)
Năm 431, Lâm Ấp ra đánh Cửu Đức, nhưng bị đẩy lui. Không ngã lòng, Phạm Dương Mại tấn công nữa, mà lần nầy bằng một phương pháp khác. Vào tháng năm, năm Nguyên Gia thứ 10 (432), ông gửi sứ sang triều cống Tống Văn đế (424-453) để ngoại giao xin cho được quyền cai trị Giao Châu. Vua không cho, lấy lẽ là đường sá xa xuôi, đi lại không tiện.
Vào năm thứ 23 hiệu Nguyên Gia (446), nhà Tấn dự tính một cuộc tấn công Lâm Ấp và giao việc đó cho Đàn Hòa Chi, thứ sử Giao Châu. Trong bọn thủ hạ của Hòa Chi có tên Tống Xác rất hùng dũng, được đặt làm Chấn Võ tướng quân, chỉ huy đạo tiền phong. Trước tình thế đó, Phạm Dương Mại gửi sứ để xin giao trả những người Nhật Nam đã bị bắt, cùng xin dâng một vạn cân vàng, mười vạn cân bạc. Văn đế nhà Tống bảo Hòa Chi nếu vua Lâm Ấp thật lòng qui thuận thì cũng ưng cho. Khi quân vào đến Châu Ngô, Hòa Chi sai viên tham quân Khương Trọng Cơ vào gặp vua Lâm Ấp. Không ngờ Trọng Cơ bị Dương Mại giữ lại. Hòa Chi quyết định đánh. Ông cho bao vây tướng địch là Phạm Phù Long ở Khu Túc. Các tướng Lâm Ấp, như Phạm Côn, Sa Đạt đến cứu đều bị Tống Xác phục binh đánh phá.
Vào tháng năm, Hòa Chi hạ thành Khu Túc, giết Phù Long, phá thành rồi tiến đến Tượng Phố. Thấy tình thế khẩn trương, Dương Mại huy động cả nước ra kháng cự, lấy áo chiến trùm cả lên mình voi. Tống Xác nhớ lại rằng voi sợ sư tử nên làm ra hình sư tử để nhát voi. Voi sợ chạy lui, quân Lâm Ấp tan vỡ, cha con Dương Mại cũng vội vàng tẩu thoát. Hòa Chi đại thắng, thu hoạch được báu vật của Lâm Ấp rất nhiều, chỉ Tống Xác là không lấy vật gì. Năm 447, Hòa Chi từ chức thứ sử Giao Châu.
Sau Đàn Hòa Chi, không có chiến tranh về phía Lâm Ấp nữa, nhưng lại có nội loạn. Năm 468, thứ sử Giao Châu là Lưu Mục mất, một người trong châu, Lý Trường Nhân, chiếm châu làm phản, tự xưng là thứ sử. Tống đế cũng gửi Lưu Bột sang để giữ chức đó. Khi Bột đến, Trường Nhân hết sức chống cự. Nhưng không lâu Bột mất, bấy giờ Trường Nhân sai sứ sang Tống triều xin cai trị châu, và ông đã được như ý. Năm 479, Lý Trường Nhân mất. Em ông là Lý Thúc Hiến sai sứ sang xin vua đặt ông làm thứ sử. Vua không nghe, đặt thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán lên, còn ông thì cho làm thái thú các quận Võ Bình và Tân Xương. Vì được dân ủng hộ, Lý Thúc Hiến muốn chống mệnh lệnh của triều đình. Khi Hoán chưa sang, ông đã chuẩn bị chống cự. và rồi thực sự đem quân chận đường không cho Hoán vào. Hoán đành phải lui về Uất Lâm, bị bệnh chết ở đó. Bấy giờ, Thúc Hiến lại xin và được chức thứ sử.
Thời nhà Tề (479-501) vừa vắn lại vừa tang thương. Lịch sử nhà Tề là lịch sử một chuỗi những cuộc ám sát. Hễ ai lên ngôi là đã vội tìm cách giết hết anh em họ hàng, để rồi lại bị giết bởi một người bà con sống sót. Trong tình trạng đó, ít hy vọng được thấy vùng Giao Châu được chú ý đến trừ khi các thứ sử không chịu nộp đồ cống. (19)
Thật vậy, năm 484, triều đình nhận được rằng đã lâu Lý Thúc Hiến không còn qui phục trung ương như thường lệ. Ý nhà vua là phải dùng võ lực phạt Giao Châu. Năm Vĩnh Minh thứ ba (485), Tề Võ đế đặt Đại tư nông Lưu Khải làm thứ sử, chỉ huy lực lượng các quận Nam Khang, Lư Lăng, Thủy Hương, sang đánh Thúc Hiến. Thúc Hiến được tin, sợ hãi, vội vàng sai sứ về triều đình xin bãi binh đồng thời dâng lên mười hai chiếc mũ đầu mâu đúc bằng bạc. Vua không chịu, Thúc Hiến lo kẻo bị đánh úp, nên theo đường Tương châu về kinh đô. Một mối loạn tạm yên.
Nhưng nếu những kẻ tham lam quyền thế, của cải, đã được lịch sử ghi lại, thì những người không màng gì đến quyền thế cũng không bị lịch sử bỏ quên. Đó là trường hợp của thứ sử Phòng Pháp Thặng. Trong thời gian ở Giao Châu, ông không lo gì đến việc cai trị, mà suốt ngày suốt buổi, ông chỉ chuyên chú đọc sách. Vì đó, tất cả công việc đều ở tay viên trưởng lại Phục Đăng Chi. Được thế, Đăng Chi chuyên quyền, thay đổi nhân viên mà không thèm cho thứ sử biết. Khi lục sự Phòng Quý Văn đem việc đó trình bày lên, Pháp Thặng tức giận, bỏ Đăng Chi vào ngục. Đăng Chi khôn khéo đem của đút lót cho em rể của Pháp Thặng, là Thô Cảnh Thúc, nên sau mười ngày đã được tha. Bấy giờ ông đánh úp châu phủ, bắp Pháp Thặng câu lưu ở một nhà riêng. Buồn vì không có gì làm, Pháp Thặng đến xin Đăng Chi sách để đọc. Đăng Chi không cho, nói: "Quan không làm gì mà còn sinh bệnh, huống hồ đọc sách". Vào tháng 11 năm Vĩnh Minh thứ tám (490), Đăng Chi tâu triều đình là Pháp Thặng có tâm tật và Đăng Chi đã được đặt lên thay. Quan cựu thứ sử chết trên đường trở về quê hương.
V. CHÍNH TRỊ THỜI LƯƠNG VÀ THỜI TRẦNVõ đế nhà Lương (502-549) có thể kể được là một vị anh quân trong những năm đầu, nhưng từ năm 527 mà đi, ông đã trở thành mê tín, dần dần mất hết tư cách của một bậc anh minh. Bấy giờ ở cổ Việt xa xuôi nầy, nhiều người đứng lên đòi độc lập. (20)
Lý Khải do nhà Tề gửi sang Giao Châu đã giữ lòng trung thành với triều đại nầy, khi nhà Lương lên cầm quyền ở Nam Kinh, và vì thế không chịu triều cống chủ mới. Vào năm Thiên Giám thứ tư, tháng hai, ngày Nhâm thìn (ngày 21 tháng 3, 505), Lý Khải bị một viên thuộc cấp trên là Lý Tắc hạ sát. Tắc được đặt làm thứ sử Giao Châu. Mười năm sau, lại có người tên là Nguyễn Tông Hiếu nổi dậy. Lý Tắc cũng có công đánh bại, chém được đầu gửi về kinh đô.
Nhưng cuộc nổi dậy danh tiếng hơn cả trong thời nhà Lương, đó là của Lý Bí. Thuộc dòng dõi hào hựu, Bí được bổ làm quan, rồi vì gặp hoàn cảnh không vừa ý đã cáo về nhà. Bấy giờ ở Giao Chỉ lại có một người tên là Tịnh Thiều, tài giỏi chữ nghĩa, nhưng xin đi làm việc, chỉ được bổ chức môn lang ở Quảng Tín, vì lẽ trong họ chưa có tiền hiền, nên lấy làm xấu hổ cũng bỏ về. Đàng khác, thứ sử Giao Châu là Võ Lâm hầu Tiêu Tư ăn ở khắc nghiệt, nhân dân oán thán. Vì tất cả đó, Bí và Thiều nghĩ đến việc khởi nghĩa. Để dễ thi hành ý định, Bí nhận chức giám quân ở Đức Châu, tìm cách liên kết với thành phần bất mãn ở các châu để nổi dậy đánh Tiêu Tư. Quan thứ sử biết vậy, vội đem tiền đút lót cho Lý Bí và trốn về Quảng Châu.
Khi tin biến loạn về đến triều đình, Lương Võ đế (502-549) sai thứ sử Cao Châu, Tôn Quýnh, thứ sử Tân Châu, Lư Tử Hùng, sang đánh dẹp Giao Châu làm một với Tiêu Tư. Họ được lệnh cử binh vào đầu năm Đại Đồng thứ tám (542). Quýnh và Tử Hùng lấy lẽ mùa xuân nhiều khí độc nên hoãn đến mùa thu, nhưng Tiêu Tư thối thúc, lại thêm Tân du hầu Hoán, thứ sử Quảng Châu, bắt buộc, họ đành phải lên đường. Không may, khi đến Hợp Phổ, binh sĩ không hợp thủy thổ, mười người chết hết sáu, bảy, đành phải giải tán. Tiêu Tư tâu trình rằng bọn Quýnh và Tử Hùng thông đồng với giặc, không chịu tiến quân, vì vậy cả hai đều phải đòi về Quảng Châu và phải tự tử.
Việc rắc rối đến đó chưa phải là hết. Thân thuộc của những người bị tội, như Tử Lược, Tử Liệt, hai em của Tử Hùng, và chủ soái Quảng Lăng là Đỗ Thiên Hợp, cùng các em ông là Tăng Minh, Tân An, Châu Văn Dục, huy động bộ hạ của Tử Hùng đến đánh Quảng Châu, có ý giết Tiêu Tư và Tân Du hầu Hoán. May sao thái thú Ngô Hưng là Trần Bá Tiên đến cứu kịp. Vị tướng tài nầy đã giết được Thiên Hợp, bắt giam Tăng Minh, Văn Dục, và sau, thấy hai người nầy kiêu dũng, đã cho làm chủ soái.
Nhân sự lủng củng giữa các tướng lãnh triều đình sai đi chinh phạt, Lý Bí đã có thì giờ để tăng cường lực lượng riêng. Năm 543 có quân Lâm Ấp cướp phá, ông sai Phạm Tu đi đánh đuổi được ra khỏi Cửu Đức. Chính sau trận thắng nầy, và nhân dịp đầu năm sau, Bí đã tự xưng là Việt đế, lấy hiểu là Đại Đức. (21)
Nhưng vị vua của nước Việt mới nầy an hưởng ngai vàng không được lâu. Vào giữa năm thứ II hiệu Đại Đồng (545), Lương đế đã lập xong kế hoạch. Tiêu Tư bị mất chức và Dương Phiêu được đặt làm thứ sử Giao Châu. Phiêu lại có Trần Bá Tiên làm Tư Mã và thứ sử Định Châu là Tiêu Bột phụ lục. Khi binh sĩ đến Tây Giang, bỗng Bột thoái chí. Biết rằng binh sĩ không muốn gì việc đi đánh xa, nên Bột tìm cách khuyên Phiêu đừng đi nữa. Khi Phiêu hội tướng sĩ lại bàn, Trần Bá Tiên cương quyết phục mệnh, và thúc quân lên đường. Phiêu bèn đặt ông làm tiền phong.
Lực lượng triều đình nhà Lương gặp ba vạn quân của Lý Bí lần đầu tiên ở Châu Diên, Bí thất bại. Lần thứ hai, hai bên giao chiến ở cửa sông Tô Lịch, Bí cũng thất bại, và rút quân về Gia Ninh. Tại đây, Bí bị bao vây và thất bại lần nữa vào ngày 25 tháng 2 năm 546, phải chạy vào trốn trong dân liêu ở vùng Tân Xương. Dương Phiêu và Bá Tiên không đuổi theo, cứ đợi ở cửa sông. Cuối mùa thu năm đó, với hai vạn quân vừa chiêu mộ được, Bí ra hồ Điển Triệt, thuyền bè đậu đầy cả hồ. Lúc đó, Bá Tiên dùng lời lẽ hăng hái khuyến khích tướng sĩ, bảo tất cả phải liều một phen sinh tử, nếu không sẽ nguy hại đến tính mạng. Thế rồi ban đêm đang lúc nước thủy triều lên, ông ra hiệu tiến quân, trống đánh inh ỏi mot góc trời. Lực lượng của Bí vỡ chạy tứ tung, còn chính Bí thì lui vào động Khuất Liêu. Vào tháng ba, năm thứ ba hiệu Thái Thanh (548), Trần Bá Tiên tấn công Lý Bí ngày ở động. Bí thất bại lần cuối cùng và ngày Kỷ vị tháng đó (tức là ngày 21 tháng 4 dương lịch) ông bị Bá Tiên chém đầu gởi về Kiến Khang.
Dư đảng của Lý Bí, sau biến cố đau thương đó, đã do người anh của ông là Lý Thiên Bảo chỉ huy vào Cửu Chân, ở đây họ hợp lực với lực lượng của một tướng khác tên là Lý Thiệu Long, tất cả được chừng hai vạn người. Bảo và Long giết được thứ sử Ái Châu là Trần Văn Giới rồi vây Châu Thành. Trần Bá Tiên đem quân tiến vào dẹp yên được. Ông được Lương đế dặt làm Tây Giang đốc hộ cai quản việc quân của cả bảy quận.
Trần Bá Tiên thắng Lý Bí ở Giao Châu và không mấy năm sau ông còn thắng cả nhà Lương ở Kiến Khang nữa. Thật thế, năm 557, ông truống Lương Cảnh đế (555-557) xuống và lên ngôi, lập ra nhà Trần. Nhưng số phận nhà Trần không được lâu bền gì. Bá Tiên hay Trần Võ đế (557-559) không đầy ba năm sau đã mất và các vua kế vị đã lu mờ một cách mau chóng trước sức bành trướng của nhà Tùy. Trong thời gian đó, ở vùng cổ Việt "chư châu giai định". (22)