CHƯƠNG THỨ TÁM (tt) -
VI. CHÍNH TRỊ THỜI TÙY (584-617)
Nhà Tùy xuất hiện không lâu trong lịch sử nhưng đã để lại một sự nghiệp khá đáng kể, đó là khỉ sự thống nhất lại Trung Quốc. Kể từ thời Tống, Trung Quốc đã chia ra thành Nam, Bắc Triều. Năm 582, Trần Thúc Bảo lên ngồi ở Kiến Khang, hoang dâm, xa xỉ. Từ Trường an Dương Kiên, tức là Văn đế nhà Tùy (584-604) đã kéo quân xuống vùng Nam Kinh, hạ bệ vị vua hư hỏng nầy để nhà Tùy cai trị cả Bắc lẫn Nam.
1) Lưu Phương
Trong đời Tùy Văn đế, ở Giao Châu có Lý Phật Tử nổi dậy. Chính ông chiếm thành củ của Lý Bí, con của anh ông là Lý Đại Quyền đánh thành Long Biên, tướng ông là Lý Phổ Đỉnh đánh thành Ô Diên. Vua nhà Tùy bèn đặt Lưu Phương làm Giao Châu đạo Hành quân tổng quản, có Kính Đức Lượng làm trưởng sử, cầm binh sĩ 27 dinh sang đánh dẹp. Khi đến Doãn Châu, Đức Lượng bị bệnh, không đi nữa, Lưu Phương đành phải kiêm tất cả. Lưu Phương có tiếng là một nhà tướng rất kỷ luật, nhưng đồng thời cũng rất có lòng tốt đối với binh sĩ, nên rất được người dưới mến phục. (23)
Khi Lưu Phương đến Đô Long, ông gặp hai nghìn địch đến đón đánh. Các dinh chủ của ông là Tống Soán, Bùi Quý, Nghiêm Nguyện kháng cự được. Về phần Lý Phật Tử, trước tiên ông cho người đến lấy lời hơn thiệt dụ dỗ. Phật Tử sợ, liền xin hàng và bị gửi về kinh đô. Thật là một thành công dễ dàng.
Nhưng sự nghiệp của ông ở vùng cổ Việt không phải chỉ có thế. Biết rằng Lâm Ấp có nhiều báu vật, triều đình muốn nhân tiện sai ông vào đánh cướp nước đó. Và triều đình viện một lý do để khỉ sự. Vua Lâm Ấp, Phàn Chí, khi Văn đế nhà Tùy (590-604) mới lên ngôi, có triều cống, nhưng về sau không cho sứ sang nữa. Thế là Lưu Phương nhận được chức Hoan Châu đạo Hành quân tổng quản với nhiệm vụ vào đánh nước của Phàn Chí. Trong nhiệm vụ nầy, ông có thứ sử Khâm Châu là Nịnh Trường Chân, thứ sử Hoan Châu là Lý Vận giúp đỡ, lại có Trương Tổn làm tư mã, và Lý Võng làm châu soái. Quân thì có hơn một vạn người cả bộ cả kỵ, thêm vào đó còn là một số tội nhân bị cầm giữ ở châu phủ.
Vào tháng giêng năm đầu hiệu Đại Nghiệp (603), Lưu Phương với quyền đại tướng, dẫn lực lượng từ Bắc Cảnh ra đi. Tại Lâm Ấp, Phàn Chí đã đề phòng, chia quân đi giữ các nơi hiểm yếu. Tháng ba, hai bên đụng độ nhau lần đầu, Lưu Phương thắng. Khi ông vượt sông Đô Lê, quân của Lâm Ấp từ các nơi kéo lại đánh, có voi trận tham chiến. Biết thế không lợi, vị đại tướng Tàu dùng mưu. Ông cho đào những hố nhỏ trên đường rồi lấy cỏ phủ lên. Khi địch đến, quân ông giả vờ thua. Địch đuổi theo, không dè voi sỉa chân xuống hố, ngã thúc vào nhau. Quân Lâm Ấp kinh sợ rút lui cùng một lúc voi bị quân Tàu ào ào xông vào bắn đuổi cũng hục hịch trốn thoát, giẫm lên mình binh sĩ. Những kẻ bị giẫm như vậy, và bị chém, kể đến hàng vạn.
Lưu Phương thắng mấy trận nữa. Vào tháng tư, ông đến kinh đô Lâm Ấp. Phàn Chí trốn chạy ra biển. Tàu lượm được của cải vô số. Đặc biệt nhất là họ lấy 18 tấm miếu chủ đúc bằng vàng. Trước khi ra về, Lưu Phương cho dựng bia đá ghi công, nhưng dọc đường ông đã bị bệnh, mất. Binh sĩ cũng bị sưng chân, người người chết hết bốn năm.
2) Khâu Hòa
Cuối thời nhà Tùy, Khâu Hòa được đặt làm thái thú Giao Chỉ. Ông có một viên tư pháp thư tá tên là Cao Sĩ Liêm. Cũng như Đào Huỳnh trong thời Ngô, Khâu Hòa cũng lâm vào cảnh thay triều đổi chủ.
Thời Dương đế cáo chung là một thời hỗn độn. Trung Quốc bị chia năm xẻ bảy, mỗi người hùng làm chúa một nơi. Lý Uyên chuyên chế ở đất Đường, Lâm Sĩ Hằng ở Phần Dương, Tiêu Tiên ở Giang Lăng. Năm 618, Lý Uyên hạ bệ nhà Tùy rồi lên ngôi thiên tử ở Trường An. Trong lúc đó, Sĩ Hoàng đã được vùng Thương Ngô, Cao Lăng, Phiên Ngung, và Tiên vùng Uất Lâm, Thủy An. Cả hai ông nầy đều thèm đất Giao Chỉ, gửi sứ đến chiêu mộ Phần Khâu Hòa, ông chưa biết việc nhà Tùy đã mất ngôi, nên không chịu theo bên nào. Các nước ở phía tây Lâm Ấp đem minh châu, sừng tê, vàng, bạc, nhờ Khâu Hòa chuyển lên vua, Hòa cũng chuyển đi, và bị Tiên chận lấy.
Vào đầu mùa hạ năm đó, Tiên quyết dùng võ lực lấy Giao Chỉ, sai Nịnh Trường Chân đem quân theo đường biển sang đánh Hòa. Hòa sợ, muốn ra hàng, nhưng Cao Sĩ Liêm bàn nên đánh. Ông bèn đặt Sĩ Liêm làm tư mã, đem quân thủy bộ nghinh chiến. Trường Chân đại bại, suýt bỏ mạng, binh sĩ thì chết hầu hết.
Sau đó, có người quen ở Giang Tô về bảo cho Hòa biết là nhà Tùy đã mất, ông bèn qui thuận Tiêu Tiên, Tiên bấy giờ đã lập quốc xưng đế, gọi là nhà Lương để chống lại với nhà Đường. Không may, lực lượng của ông càng ngày càng yếu, thủ hạ ông lại dần dần bỏ ông. Vào tháng chín năm Võ Đức thứ tư (621), Khâu Hòa Cao Sĩ Liêm sang Giang Lăng có ý yết kiến Tiên, bỗng được tin Tiên thua tướng nhà Đường là Hiếu Cung. Hòa và Liêm theo Hiếu Cung, nên trong tháng đó, thấy bơ vở, Tiêu cũng đầu hàng nhà Đường.
Năm sau, vào tháng ba, Đường Cao Tổ (618-626) ban cho Khâu Hòa chức Giao Châu tổng quán, Hòa bảo Sĩ Liêm dâng sớ xin cho ông về chầu. Chẳng những Đường đế thuận cho, mà còn sai Khâu Sư Lợi, con của Hòa, đi nghinh tiếp. Vua hậu đãi Hòa, ban cho ông chức Tả Võ hầu đại tướng quân. Hòa bấy giờ đã tuổi tác nên không còn trở lại Giao Châu. Vua đặt ông làm thứ sử Tắc Châu, là chỗ quê nhà.
Cũng trong năm Võ Đức thứ năm (622), các thái thú Đặng Văn Tiên ở Quảng Châu, Xưng Tuyên ở Hợp Phổ, Lý Giao ở Nhật Nam, đều qui thuận nhà Đường.
VII. CHÍNH TRỊ THỜI ĐƯỜNG (618-906)Đối với đất cổ Việt, đời Cao Tổ chỉ là thời chinh phục, từ thời Thái Tông về sau mới là thời cai trị.
1) Thời Thái Tông (627-649)
Thái Tông, tức là Lý Thế Dân, con người đã giúp một phần rất lớn vào việc sáng lập nhà Đường. Nhưng ông là con út của Cao Tổ. Một đàng vì lẽ ông sinh sau, đàng khác vì ông đã có một sự nghiệp quá hiển hách đến nỗi làm lu mờ cả địa vị của vua cha, Cao Tổ đã có dự định bỏ ông và đặt người con cả làm thế tử. Biết vậy, vào tháng 6, 626, ông giết anh ông. Vua cha hiểu ý nên chẳng những đặt ông làm thế tử mà còn nhường ngôi cho ông, bấy giờ mới 27 tuổi đầu.
Thái Tông là một vị tướng vừa can đảm, vừa mưu lược, đồng thời cũng là một vị vua khôn ngoan. Ông là người đã mang Trung Quốc về phía Bắc và phía Tây, và đã củng cố quyền bính trung ương ở khắp mọi nơi trong nước, xa cũng như gần.
Về cổ Việt, Thái Tông có để lại một vài dấu vết. Vào tháng 10 năm Trinh quán thứ hai (628), một người thuộc tông thất, tức là Toại an công Thọ, đô đốc Giao Châu, vì ăn ở tham bạo, nên bị vua trừng phạt nghiêm nhặt. Rồi buồn vì thấy Giao Châu đã lâu ngày những bị tham quan tệ lại quấy nhiễu, vua cố tìm cho được một người trung chính gửi sang cầm quyền. Chính trong cố gắng nầy, chúng ta có thấy được một phần nào tư cách của vị vua trẻ trung và quyền thế.
Bấy giờ có Lư Tổ Thượng, cựu thứ sử Doanh Châu, nổi tiếng là văn vỏ toàn tài lại liêm bình công trực. Vua muốn sai ông sang làm thứ sử Giao Châu. Tổ Thượng nhận lời, rồi lại hối hận từ chối, lấy lý là có bệnh. Vua sai bọn Đổ Như Hối mang dụ chỉ đến cho Tổ Thượng, trong đó vua nói: "Kẻ thất phu còn giữ lời hứa với nhau, cớ sao nhà Thầy đã hứa với Trẫm mà lại sai lời?" Nhưng Tổ Thượng vẫn không đổi ý. Ngày Mậu tí tháng hai năm đó, vua triệu Tổ Thượng đến lần nữa để khuyên ông, ông cũng cứ không chịu đi. Tức giận quá, vua nói: "Ta sai kẻ khác không được, thì cai trị sao nổi?", bàn bảo giết ông ngay ở triều.
Sau đó, vua không yên tâm. Một hôm, nói chuyện với thị thần, vua hỏi: "Văn Tuyên đế nhà Tề là người thế nào?". Ngụy Trưng thưa: "Văn Tuyên là người cuồng bạo, nhưng khi cải lý mà thua thì biết nghe theo. Có ông Ngụy Khải trước làm trưởng sử Thanh Châu, khi đi sứ nhà Lương, về được bổ làm trưởng sử Quảng Châu. Khải nhất định không đi. Khi Dương Đạo Ngạn tâu lại với vua, vua giận, cho gọi Khải đến trách. Khải tâu: "Trước đây thần giữ việc ở một châu lớn, mệt nhọc mà không có gì sai suất, nay sao lại phải đi giữ việc ở một châu nhỏ? Đó là lý do khiến thần không đi". Văn Tuyên bảo Đạo Ngạn rằng: "Nói thế có lý, khanh hãy tha cho ông ta". Đó là chỗ tốt của Văn Tuyên". Nghe vậy, Thái Tông than rằng: "Thế mà, nhà trứ danh Lư Tổ Thượng, chỉ vì trái đạo nhân thần, Trẫm cũng đã giết di, thật là quá bạo ngược. Thảo nào người ta chê Trẫm không bằng Văn Tuyên". Vua liền sai phục chức cho Lư Tổ Thượng và cho tập ấm. (25)
Năm 635 (Trinh quán năm thứ 9, Đô đốc Giao Châu là Lý Đạo Hưng. Ông là người tông thất, trước đã làm Quảng Ninh quân vương, sau bị giáng vì có tội, chỉ còn chức Huyện công, và được sai sang vùng cổ Việt. Tại đây ông vừa không hợp thủy thổ, vừa ưu sầu, đã bị bệnh chết.
Năm Trinh quán thứ II (637), đô đốc Giao Châu là Ngô Vương Khác, thường thích đi săn, làm hại dân rất nhiều. Viên Thị ngự sử Liêu Phạm tâu vua xin quở phạt. Ngày Đinh sửu tháng 10 năm đó, Khác bị cách chức, và tước mất lộc ba trăm hộ. Vua nói: "Quyền người trưởng sử quan hệ đến muôn đời. Con ta không cai trị tử tế, là tôi đáng chết". Liêu Phạm thưa: "Phòng Huyền Cầm thờ bệ hạ mà chưa bỏ được thói đi săn, thì sao chỉ một mình ông Khác là bị tội muôn đời?". Vua nghe vậy, giận lắm, vất áo, đi vào trong. Lâu sau, vua gọi Phạm đến một mình, hỏi: "Sao lại cải ngang ta?". Phạm thưa: "Vì bệ hạ nhân từ minh chính, nên thần không dám không hết lòng ngu trực". Vua lấy làm vừa ý.
Năm sau, ở Minh Châu, tức là phần đất tên là Việt Thường thuộc quận Nhật Nam dưới thời Tùy, dân liêu nổi lên làm loạn. Ngày Kỹ tị tháng II, đô đốc Giao Châu, Lý Đạo Ngạn dẹp yên được. (26)
2) Thời Võ Hậu (684-705)
Khi Thái Tông mất, ngày 10 tháng 7, 649, con ông lên thế lấy hiệu Cao Tông (650-683). Vua nầy tài lược tầm thường nhưng nhờ uy thế của vua cha nên nắm được guồng máy chính quyền vững vàng trong một thời gian. Trong thời Cao Tông, ngoài việc đổi Giao Châu đô đốc phủ làm An Nam đô hộ phủ (679), người ta không còn thấy sử sách ghi lại điều gì khác trừ việc đặt Trứ Toại Lương làm thứ sử Ái Châu vào năm 658. Ông nầy, khi đến nhậm chức, đã dâng biểu xin cho được thay thế vì ông tự xét rằng "Lực tiểu, nhậm trọng". (27)
Cao Tông càng ngày càng trở nên nhu nhược, công việc thường bị hậu cung điều khiển. Cuối cùng bà phi Võ Tắc Thiên đánh thuốc độc giết ông, rồi lên nắm chính quyền. Đó là Võ Hậu. Bà là một người độc ác, nhưng cương nghị, đã đổi nhà Đường ra thành nhà Chu kể từ 690, và cũng đã vớt vát được phần nào uy tín đã mất của Trung Quốc, sau những lần thất bại đối với các dân di địch về phía Bắc.
Trong thời bà ở cổ Việt, có loạn dân Thổ. Vào năm Thừa củng thứ ba (687), An Nam đô hộ là Lý Diên Hựu. Về trước, vùng dân Thổ, thuế chỉ phải nộp một nửa phần. Diên Hựu ra lệnh bắt nộp cả phần, nên tháng tám năm đó, họ nổi dậy chống đánh đuổi sự điều khiển của Lý Từ Tiên. Quan đô hộ bắt giết Từ Tiên. Đinh Kiến thay thế, cầm đầu loạn quân, đến vây An Nam phủ. Trong thành binh sĩ ít nên Diên Hựu đóng cửa chờ viện quân. Ở Quảng Châu, Phùng Tử Do được tin không cho quân sang cứu, vì muốn đợi cho tình trạng nguy ngập đã mới đến, mong lập được công to hơn. Trong lúc đó, thành mất, Diên Hựu bị giết. Bấy giờ viên tư mã Quế Châu là Tào Huyền Tĩnh sang đánh giết được Đinh Kiến. (28)
3) Thời Huyền Tông (712-756)
Năm 705, Võ Hậu đã thọ bát tuần. Triều đình nhận thấy dầu bà cương nghị đến đâu cũng không thắng được dân di dịch lúc đó đang hoành hành ở miền bắc, nên nhân lúc ba ngã bệnh, đã khôi phục lại nhà Đường, đặt lên ngôi con người đáng lẽ đã cai trị từ 684, tức là Trung Tông (705-718). Không may Trung Tông nhu nhược, bị vợ chuyên chế rồi giết năm 710. Vi hậu muốn tiềm vị theo kiểu Võ hậu, nhưng bị giết và Duệ Tông (710-712) tức vị. Vua nầy chỉ cầm quyền trong một thời gian ngắn rồi nhường ngôi cho con là Lý Long Kỳ, tức Huyền Tông. Với Huyền Tông đã khỉ sự thời đại thường gọi là thời thịnh Đường. Chính trong thời nầy người ta đã thấy xuất hiện Lý Bạch (701-756) và Đỗ Phủ (712-710), hai thi nhân lỗi lạc nhất của Trung Quốc. Thời nầy cũng là thời của Dương Quí Phi, vợ Huyền Tông. Về mặt chính trị, Trung Quốc cũng được uy thế chẳng kém gì thời Thái Tông.
Trong thời Huyền Tông, ở cổ Việt không có biến cố nào quan trọng, trừ ra cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan. Cuộc nổi dậy nầy xem chừng có một qui mô đáng kể. Tân Đường thư (29) thuật rằng ông tự xưng là Mai Hắc đế, huy động dân chúng của 32 châu, liên kết với các nước ngoài, như Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, để chiếm cứ Hải Nam. Quân của ông có đến 40 vạn người. Không rõ những chi tiết đó hư thực bao nhiêu, nhưng biến cố đã làm cho Huyền Tông lo lắng. Vua sai viên Nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc, và An Nam đô hộ là Quang Sở Khách đem 10 vạn quân sang dẹp. Hai ông nầy theo con đường Mã Viện đã đi trước kia để vào cổ Việt, xong đánh Thúc Loan một cách bất ngờ, bắt được ông và giết đi. Có điều nầy đáng chú ý là Ngô Sĩ Liên thường ca ngợi những nổi dậy ở cổ Việt, nhất là những người đã từng xưng đế, xưng vương. Vậy mà trong Toàn thư chúng ta thấy Mai Thúc Loan bị gọi là "tặc tướng". Như thế, phải chăng vì ông nầy không phải thuộc về cùng một giống như người Việt ta? (30)
Thời Huyền Tông, vào năm 742, số binh sĩ đóng ở An Nam phủ là 4 200 người. (31)
4) Một thế kỷ sau Huyền Tông
Huyền Tông đã kết thúc triều đại ông một cách buồn bã. Năm 756, một thân thần của ông, An Lộc Sơn, nổi loạn. Ông phải trốn tránh vất vả rồi nhường ngôi cho con là Túc Tông (756-761). Sau đó, Đại Tông (762-779) tiếp tục dẹp loạn, cố khôi phục lại uy quyền nhà Đường. Các vua kế tiếp, như Đức Tông (780-805), Thuận Tông (805), Hiến Tông (806-820), Mục Tông (821-825) và Văn Tông (827-840), đều phải dựa vào thế lực các thủ lĩnh Hồi hốt để giữ vững quyền bính. Thời các vua Võ Tông (841-846) và Tuyên Tông (847-859), nhà Đường đã trở thành lu mờ.
Ở cổ Việt, trước hết có cuộc nổi dậy của Đỗ Anh Hàn, 767. Anh Hàn là tù trưởng các dân nam. Theo sự thường, họ không phải là thứ người hiếu loạn, nhưng khi bị đàn áp quá bởi những tay tham soái, họ ồ ạt đứng lên chống đối. Bấy giờ An Nam đô hộ Cao Chính Bình, thật là một tham quan: thuế má dân phải đóng rất nặng. Bởi đó! Đỗ Anh Hàn chỉ huy quân man đến vây đô hộ phủ, làm cho Chính Bình sợ mà chết. Khi biết rằng quan đô hộ tham tàn đã chết, họ đều xin hàng. (32)
Trong thời nầy, dân cổ Việt có người làm lớn, đó là Khương Công Phụ, người huyện Nhật Nam, thuộc Ái Châu. Công Phụ chẳng những đã làm vinh danh cho nơi sinh trưởng của ông, mà còn là một nhân vật quan trọng của lịch sử Trung Quốc. Truyện ông đã được thuật trong Đường thư và Tân Đường thư. Ông đậu đến tiến sĩ, được bổ làm Hiệu Thư lang. Tài đối đáp hùng hồn của ông đã làm cho ông được chức Hàn lâm học sĩ, rồi Thượng thư. Khi thấy Chu Tỉ nắm trong tay quá nhiều quyền bính, ông đã khuyên Đức Tông giết đi vì "dưỡng hổ vô tự vi hại". Dầu vua không nghe, Công Phụ vẫn kiên nhẫn trình bày mọi nỗi nguy nan. Ở Phụng Thiên, vua đã thoát nạn nhờ lời ông trần tấu, nên ông được chức Thứ nghị đại phu đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Sau đó, vì cứ can gián vua, nên vua giận giáng chức ông xuống. Cuối cùng ông được đặt làm thứ sử Cát Châu, nhưng chưa đến nhiệm sở, đã chết. (33)
Năm Nguyên Hòa thứ tư (809), đất cổ Việt bị ba vạn quân Chiêm Thành tấn công, do chính Hoàn vương cầm đầu. Quan đô hộ An Nam là Trương Châu, vào tháng tám, đã đẩy lui được lực lượng địch. Mười năm sau, lại có loạn Dương Thanh (819). Ông nầy cai trị dân man di, bị quan đô hộ Lý Tượng Cổ gọi về bắt làm nha tướng, nên rất uất hận. Tượng Cổ lại có tiếng tham túng hà khắc, ai ai cũng ghét. Bấy giờ ở vùng Hoàng Động, dân man đang nổi lên chống chính quyền. Kể từ thời Trinh Nguyên ((785-804), thủ lĩnh họ là Hoàng Thiếu Hương luôn luôn quấy rối. Bùi Hành Lập ở Quế Quản và Dương Mân ở Dung Quản đã đem quân đánh đẹp mà thất bại. Quan đô hộ An Nam cũng muốn lập công, sai Dương Thanh đi trừ loạn. Không ngờ ngày Nhâm tuất tháng 10 năm đó, thay vì đi đánh Thiếu Hương, Dương Thanh, với ba nghìn quân, đã quay lại giết Tượng Cổ và gia nhân, cùng thuộc hạ, tất cả đến hơn nghìn người. (34)
Triều đình biết rõ cớ sự, tha cho Dương Thanh và đặt ông làm thứ sử Quỳnh Châu, cùng đặt Quế Trọng Võ làm An Nam đô hộ. Tháng hai năm sau, khi Trọng Võ đến, Thanh không cho vào. Nhưng bấy giờ, vì Thanh tàn bạo, thủ hạ đã ly tán nhiều. Trọng Võ dụ dỗ họ, nhiều người xin hàng. Triều đình lấy lẽ Trọng Võ chậm chạp, phạt làm An Châu thứ sử, đặt Bùi Hành Lập làm An Nam đô hộ. Trong lúc đó, tướng sĩ của An Nam phủ mở cửa đón Trọng Võ vào, và bắt Dương Thanh giết đi. Hành Lập cũng sang nhậm chức, nhưng đến Hải Môn thì chết. Trọng Võ được phục chức vào ngày tân vị, tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ 15. (35)
Sau đó, nhiều nơi không được yên. Năm Tường Khánh thứ ba (823), quan đô hộ An Nam tâu về triều rằng người liêu ở Lục Châu đánh phá châu huyện. Tháng tư và rồi tháng chín lại tâu rằng dân man Hoàng Động phá phách. Năm sau, vào tháng tám, cũng tâu như vậy. (36)
Năm thứ hai hiệu Thái Hòa (828), vào tháng sáu, thứ sử Phong Châu, Vương Thăng Chiêu, làm loạn. Đô hộ An Nam là Hàn Ước đánh được và giết đi. Nhưng Hàn Ước không khôn khéo, công minh, nên tháng chín năm đó, vào ngày canh tuất, lại bị binh sĩ trong phủ thành nổi dậy trục xuất.
Thời Võ Tông, quan Kinh lược sứ An Nam tên là Võ Hồn. Trong một thời an ninh bị đe dọa, ông chăm nôm đến thành quách. Nhưng tướng sĩ phải làm việc nhiều lại ghét ông, nổi dậy chống. Tháng II, năm Hội Xương thứ ba (844), họ đốt lầu trong thành, cướp kho của phủ. Võ Hồn sợ hãi chạy về Quảng Châu. Viên giám quân là Đoàn Sĩ Tắc phủ dụ tướng sĩ, tình hình lại được yên ổn. (37)
Năm Hội Xương thứ sáu (846) vào tháng chín, ở An Nam, dân man đánh phá. Kinh lược sứ Bùi Nguyên Hựu lấy quân các đạo chung quanh dẹp yên được. Năm Đại Trung thứ II (857), dân man ở khe động Lĩnh nam nổi dậy. Vua đặt Hữu thiên ngưu đại tướng quân Tống Nhai làm tuyên úy sứ An Nam và Ung Quản, rồi làm An Nam kinh lược sứ. Nhưng bấy giờ ở Dung quản, quân đội nổi loạn, dưới kinh lược sứ Vương Cầu, nên tháng sáu năm đó, Tống Nhai lại làm Kinh lược sứ Dung quản. (38)
Cuối đời Tuyên Tông, cổ Việt được một vị cai trị có tài tên là Vương Thức. Ông được đặt làm đô hộ kinh lược sứ An Nam vào tháng giêng năm Đại Trung thứ 12 (858), nghĩa là vào một lúc nền an ninh rất bị lung lay. Đến nơi ông liền nghĩ đến việc phòng thủ phủ thành, như trồng cây "điêu" làm hàng rào trong, giữa đào hào, ngoài trồng tre gai. Đàng khác, việc huấn luyện binh sĩ được thực hiện chu đáo. Không lâu, có một bọn nam man kéo đến. Thức ung dung cho người giải dịch hơn thiệt cho họ, họ rút về. Ông cũng chỉnh đốn trật tự, không ngần ngại phạt La Hành Cung lạm quyền làm bậy. Ở Giao Châu bấy giờ có một số người hay sinh sự, phao tin rằng giặc Hoàng Đầu ở Dung Quản đang đến xâm chiếm, mục đích là gây cơ hội kéo đến phủ trục xuất quan đô hộ về bắc. Không nao núng tí nào, Vương Thức lên thành, cho dựng cờ đại tướng, mở lời mắng trách loạn quân. Họ bỏ chạy, nhưng bị ông bắt được giết hết. Ông cũng lo việc khao thưởng binh sĩ và gửi cống lễ về triều đình. Mấy năm trước đó, những việc như thế đã bị phế trễ. (39)
5) Chính trị thời Đường Mạt
Các Đường đế của hạ bán thế kỷ thứ 9 đều là những nhà cai trị không mấy tên tuổi, và hình như họ rút vào bóng tối dần dần cho đến khi triều đại chấm dứt vào năm 907. Sau Tuyên Tông, tính ra con có Ý Tông (860-873), Hy Tông (874-888), Chiêu Tông (889-904) và Ai Tông (905-907). Đang khi đời sống của họ bị đóng khung giữa các hoạn quan và đạo sĩ, biên thùy bị rối loạn liên miên. Ở phía Tây, người Tây Tạng xâm lăng, và khi nạn Tây Tạng bớt nguy, thì nạn Nam Chiếu xuất hiện. Nạn Nam Chiếu nầy đã làm cho cổ Việt phải chịu tang tóc nhiều nhất.
Trước kia ở miền cổ Việt có sáu chiếu của dân man. Năm 738, chiếu Mông Xá đã sáp nhập sáu chiếu lại làm một và vua Trung Quốc phong cho làm Vân Nam quốc vương. Nam chiếu muốn mở mang về phía đông nên đã đặt một viên Thác đông tiết độ sứ. (40)
Viên đô hộ Lý Trác cai trị An Nam trước Vương Thức, đã cho Nam chiếu một cơ hội tốt để bành trướng. Trác vừa tham lam lại vừa kém mưu lược. Thường ông đổi một đấu muối lấy một con bò hay một con ngựa của dân nam. Ông giết viên tù trưởng họ là Lý Tồn Thành và rút lực lượng Trung Quốc trú phòng ở vùng thượng. Về trước, vào mùa đông có sáu nghìn quân đóng ở Lâm Tây Tuyền, thuộc Phong Châu. Viên tù trưởng vùng nầy dựa vào lực lượng đó để thâu thuế nộp về phủ. Khi Lý Trác bãi đồn Lâm Tây Tuyền, Do Độc vừa thấy bơ vơ, lại vừa được viên tiết độ sứ Nam chiếu dụ dỗ và đem con gái gả cho, nên bỏ An Nam theo Nam chiếu. Thế là nạn Nam chiếu bắt đầu.
Tháng năm, năm thứ 12 hiệu Đại Trung (858), quân Nam chiếu đến cướp phá. Vương Thức đánh đuổi được. Nhưng rồi Thức được gọi về dẹp loạn Cửu Phủ ở Chiết đông, và Lý Hủ sang thay. Độc ác, Hủ giết tù trưởng Đỗ Thủ Đăng, làm cho người man hết sức oán giận. Bấy giờ quân Nam chiếu đang đánh phá Bá Châu thuộc đạo Kiển trung, Hủ muốn lập công bèn mang quân đi dẹp. Không ngờ, nhân lúc phủ thành để trống, người nam mời Nam chiếu kéo ba vạn quân đến. Tháng chạp năm đầu hiệu Hàm Thông, Lý Hủ phải chạy về Võ Châu, chiêu mộ người man, trở về đánh đuổi được dân Nam chiếu ra khỏi thành. (41)
Trong lúc đó, vua Đường chưa biết Hủ đã chiếm lại phủ, lại muốn lấy lòng dân man cho yên chuyện, nên giáng Hủ làm tư hộ Chiêm Châu, và đặt Vương Khoan làm An Nam đô hộ kinh lược sứ. Bấy giờ là vào giữa năm 851. Năm sau (862), Nam chiếu trở lại. Vua sai Sái Tập sang thay Khoan, đem theo ba vạn quân. Thấy thế, địch rút lui. Tiết độ sứ Lĩnh Nam là Sái Kinh không muốn cho Sái Tập lập công, tâu vua tình hình đã yên, và xin bãi binh. Vua nghe Sái Kinh bãi binh, mặc cho Tập tâu đi tâu lại rằng tình hình vẫn còn trầm trọng. Nhưng Kinh độc ác, không lâu sau đã bị bịnh sĩ nổi dậy đuổi đi. Phần Sái Tập, vào cuối năm, bị Nam chiếu đến đánh lần nữa với năm vạn người. Địch chiếm phủ thành Giao Chỉ, còn Tập thì bị chết đuối đang đi tẩu thoát. Quân Nam chiếu giết hết chừng 25 vạn người An Nam, lưu Tư Tấn lại trấn giữ Giao Chỉ, dưới quyền của tiết độ sứ Đoàn Tù Thiên, ở Thiện Xiển.
Khi Tập kêu cứu, quân các đạo Kinh nam, Hồ nam, đã được lệnh ra đi, nhưng bị Lĩnh nam tiết độ sứ Vi Trụ giữ lại để phòng thủ Ung Châu sau có một số sang Giao Chỉ thì thành đã mất. Bấy giờ, vua bỏ An Nam đô hộ phủ và lập Hành Giao Châu ở Hải Môn, đặt Tống Nhung làm thứ sử cùng giao viện quân cho Khang Thừa Huấn. Mùa thu, đặt lại An Nam đô hộ phủ, cho Tống Nhưng làm kinh lược sứ lo việc tái chiếm An Nam. Nhưng Đường binh vẫn lưu lại Lĩnh nam không chịu tiến, hao tổn lương thực.
Năm Hàm Thông thứ năm (864), quân số ở Hải Môn đã lên đến hai vạn rưỡi. Nhung được lệnh tiến quân, nhưng lại do dự mãi. Bấy giờ Cao Biền được đặt làm An Nam đô hộ kinh lược chiêu phạt sứ. Viên Giám quân ở Hải Môn, Lý Duy Chu, rất ghét Biền, giục Biền khởi hành trước, có ý trừ đi. Năm thứ sáu hiệu Hàm Thông, vào mùa thu, Biền tiến quân. Mặc dầu không có lực lượng ứng viện như Duy Chu đã hứa, Biền cũng thắng được Nam chiếu ở Phong Châu, đoạt được nhiều lúa làm quân lương. Tại An Nam phủ lúc đó, Phan-xi-ta của Nam chiếu làm đô thống, và Trương Tập làm phó. Cao Biền khi được Vi Trọng Tể đem bảy nghìn quân đến tăng cường, ông càng đánh hăng và thắng Nam chiếu nhiều trận. Không may, tin thắng trận gửi về, đều bị Duy Chu dìm mất, khiến cho vua cứ tưởng Biền chưa chịu đánh. Vua giận, đặt Vương An Quyền sang thay Biền và đòi ông về kinh để phạt. Trong lúc đó, quân Nam chiếu thua Biền phải rút vào thành cố thủ. Tháng 10, năm Hàm thông thứ bảy, thành An Nam sắp được tái chiếm, thì bỗng Biền được lệnh triệu hồi. Ông liền giao quyền cho Vi Trọng Tể và lên đường ngay. Nhưng trước đó, ông và Trọng Tể đã cho người mang tin thắng trận về cho triều đình. Đường đế nhận được, mừng lắm, ban cho ông chức Kiểm hiệu Công bộ Thượng thư, truyền trở lại đánh Nam chiếu. Đến Hải Môn, được lệnh đó, Biền lại trở về An Nam.
Lý Duy Chu và Vương Án Quyền đến Giao Chỉ, lo làm giàu, không lo đánh giặc. Tướng sĩ ghét họ không chịu canh phòng, khiến quân Nam chiếu thoát được vòng vây quá nửa. Đến nơi, Biền hết sức thúc giục binh sĩ chống đánh, chẳng bao lâu đã hạ được thành. Ông giết Đoàn Tù Thiên và tên dẫn đường cho quân Nam chiếu là Chu Đạo Cổ. Quân Nam chiếu chết hơn ba vạn, Biền còn đánh hai động dân man và giết được hai tù trưởng. Dân man đầu hàng đến một vạn bảy nghìn người.
Bấy giờ vua truyền cho binh sĩ các nơi đâu về giữ cương giới nấy, đừng đánh nữa. Nhà ngoại giao Lưu Đồng Hiểu được lệnh nối lại với Nam chiếu tình giao hảo như xưa. Phần An Nam phủ nầy được gọi là quận Tĩnh Hải, và Cao Biền làm tiết đỗ sứ. Ông dựng hơn bốn chục vạn căn nhà cho dân ở. Ông còn có công thuê thợ đúc những tảng đá ngầm trên đường thủy đi Ung Châu cho thuyền qua lại khỏi bị nạn. Tháng tám năm Hàm Thông thứ chín (868), khi được gọi về làm Kim ngô đại tiếng quân, ông đã xin cho cháu là Cao Tâm thấy thế, và đã được như ý. (42)
Năm đầu hiệu Quảng Minh (880), lối tháng ba, binh sĩ An Nam làm loạn. Tiết độ sứ Tăng Cổn phải trốn ra khỏi thành, đánh mấy tháng mới thắng được. Vào tháng hai năm Thiên Hựu thứ hai (905), tiết độ sứ Tĩnh Hải, Chu Toàn Dục, bị em là Hộ Quốc Tuyên võ Tuyên Nghĩa, Trung Võ tứ trấn tiết độ sứ Chu Toàn Trung thối chức đề về trí sĩ. Toàn Dục đã bị trách là quê mùa, lười biếng, bất tài, làm không chạy việc. Ngày mậu dần tháng ba năm đó, viên thị lang đồng bình chương sự Độc Cô Tổn được cử làm bình chương sự kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải. Nhưng ông nầy chống với Toàn Trung nên bị hạ làm thứ sử Đệ Châu, rồi Tư hộ Quỳnh Châu, rồi phải tự tử. Trong khi số phận của Cô Tổn xảy ra như thế, thì ở cổ Việt Khúc Thừa Dụ lên làm tiết độ sứ. Ông được Trung Quốc công nhận và giữ chức được hai năm. Tháng bảy, năm đầu hiệu Khai Bình, ông mất (907) và con là Khúc Hạo lên thế. (43)
VIII. CHÍNH TRỊ THỜI NGŨ ĐẠI (907 - 957)Thời Ngũ Đại tức là những năm giữa nhà Đường và Tống. Sự yếu đuối của những vị vua thời mạt Đường đã khiến nhiều kẻ sẵn sàng đứng lên tự chủ ở vùng đất họ đang cai trị. Đa số những người nầy tuyên bố độc lập là chống lại nhà Hậu Lương vì chiếm ngôi nhà Đường.
Tháng thứ năm Thiên Hựu thứ tư, Chiêu Tuyên đế nhà Đường bị Chu Toàn Trung bắt từ chức, rồi sang năm sau bị giết. Kể từ khi được đặt làm tiết độ sứ Khai Phong, vào năm 883, Toàn Trung đã mưu đồ sáng nghiệp. Năm 900, ông chiếm Hà Bắc, rồi đến Trường An (901) nắm quyền hành. Ba năm sau, ông dời đô về Lạc Dương, giết Chiêu Tông cùng con cái, chỉ trừ có người con thứ chín, 13 tuổi, đã kế vị, đó là Chiêu Tuyên đế, như vừa nói. Triều đại của Toàn Trung chỉ đến năm 923 là hết.
Khi Toàn Trung lên ngôi, Lý Khắc Dụng tuyên bố độc lập ở Sơn Tây, đó là nhà Tấn, Dương Hành Mật tuyên bố độc lập ở Dương Châu, đó là nhà Ngô, Lý Mậu Trinh tuyên bố độc lập ở Thiểm Tây, đó là nhà Tần. Một số các nước khác cũng được thành lập, như nước Ngô Việt của Tiển Liêu, nước Mân của Vương Thẩm Tri, nước Thục của Vương Kiến. Như thế, nếu ở cổ Việt, hào kiệt nghĩ đến việc tách ra khỏi Trung Quốc cũng không có gì là lạ, nhưng việc đó chưa thực hiện được ngay.
Năm 908, nhà Hậu Lương đặt Lưu Ấn, tiết độ sứ Thanh Hải, kiêm chức tiết độ sứ Tĩnh Hải. Năm sau, Lưu Ấn được phong làm Nam Bình vương. Khi Lưu Ấn mất, vào tháng ba năm đầu hiệu Càn Hóa (911), em ông là Lưu Yểm kế vị, nhưng chức tiết độ sứ Tĩnh Hải lại được giao cho Khúc Thừa Mỷ, con của Khúc Hạo, ngày mậu ngọ tháng chạp năm đó, tức là ngày 31 tháng 12, 911. (44)
Lưu Yểm càng ngày càng kiêu căng đòi nhà Hậu Lương cho thêm quyền bính. Mạt đế từ chối một cách cương quyết, nên Yểm đoạn tuyệt với trung ương (915) và tự xưng là Đại Việt đế. Ba năm sau, vào tháng tám, năm thứ tư hiệu Trinh Minh, ông đổi tên triều đại là Nam Hán, lấy niên hiệu là Càn Hưởng. Từ đó, nhà Nam Hán nhiều lần khuyên Thừa Mỹ thần phục, nhưng viên tiết độ sứ liệt Yểm vào hạng phản trắc nên cứ trung thành với nhà Hậu Lương.
Năm 923, ngôi thiên tử về tay nhà Tấn. Kể từ năm 907, nhà Tấn ở vùng Sơn Tây đã không nhận quyền nhà Hậu Lương, nay đứng lên lật đổ dòng dõi của Chu Toàn Trung và lấy tên triều đại là Hậu Đường. Như thế, Thừa Mỹ mất chúa cũ và rất dễ làm mồi cho tham vọng của Lưu Yểm. Nhưng biết việc đánh Tĩnh Hải không phải dễ dàng, nên Yểm đợi thời, và mãi đến năm 930 mới quyết định thử sức với họ Khúc. Năm đó Yểm sai hai tướng là Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh sang Giao Chỉ, Thừa Mỹ không may thất bại bị điệu về Nam Hải. Yểm tiếp Thừa Mỹ ở lầu Nghi Phượng, nói rằng: "Công thường bảo ta là ngụy, sao nay lại phải quay mặt đi và trói tay như thế?". Thừa Mỹ cúi đầu chịu tội, được Yểm tha cho. Một thủ hạ của Yểm là Lý Tiến sang làm thứ sử Giao Châu. Nên nhớ rằng Lương Khắc Trinh, sau khi thắng Giao Châu, còn vào đánh Chiêm Thành, cướp được nhiều báu vật nữa mới về. (45)
Họ Khục thất bại, đã chấm dứt một giai đoạn bán đọc lập của vùng cổ Việt. Nhưng một đàng tình thế Trung Quốc bất ổn, đàng khác dân cổ Việt đã đông và đã ăn liền với khí thiêng sông núi, hơn nữa lĩnh thể của họ đã mở vào đến đèo Hải Vân và sang cả bên kia, nên sự thất bại của Thừa Mỹ chỉ là một thử thách nhất thời, nó sẽ kích thích hơn là làm chán nản, lòng ao ước tiến đến một nền độc lập vĩnh viễn.
CHÚ THÍCH
1. Léonard Aurousseau, "Les Théories sur la localisation de la commanderie de Siang", BEFEO, XXIII, trang 153-168, Henri-Maspero, "Études d'Histoire d'Annam III. La Commanderie de Siang, BEFEO, XVI, trang 49-55.
2. Ban Cố, Tiền Hán thư, quyển 95, trong Bộ Nhị Thập Ngũ Sử, "Tây Nam di lưỡng Việt Truyện", trang 603-605.
3. Lệ Đào Nguyên, Thủy Kinh chú, quyển 37, tờ 4a.
4. Tư Mã Thiên, Sử ký, quyển 113, "Triệu Đà truyện", trong N.T.N.S., trang 251-252.
5. Phạm Việp, Hậu Hán thư, quyển 105, "Nhâm Diên truyện", trong N.T.N.S., trang 869.
6. Tư Mã Quang, Tư Trị Thông Giám, quyển 52, tờ 6-9.
7. Trong Toàn thư của Ngô Sĩ Liên, quyển 3, tờ 6-9, thấy chép rằng: "Nhật nam phục công thiêu quận ấp. Cửu Chân thứ sử Hạ Phương chiêu hàng giả nhị phủ dụ chi". Ở chỗ nầy, Tư Trị Thông Giám nói rõ là: "Nhật nam man di phục phản". Về Hạ Phương, thì không phải là thứ sử Cửu Chân, vì ông không hề làm chức đó bao giờ trong đời ông. Nhưng ông là người quê Cửu Giang, làm thứ sử Giao Chỉ. Tư Trị Thông Giám, quyển 52, trang 33, chép: "Giao Chỉ thứ sử Cửu Giang Hạ Phương".
8. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 57, tờ 16.
9. Phạm Việp, sách đã dẫn, quyển 61, "Giả tung truyện", trang 767.
10. Bài ca nầy lấy theo Hậu Hán thư, còn trong Toàn thư, quyển 3, tờ 7a, thì chép:
Giả phụ lai vãn,
Sử ngã tiên phản,
Kim kiến thanh bình,
Bất cảm phục phản.
11. Trần Thọ, Tam Quốc Chí, Ngô Thư, quyển 4, trong bộ N.T.N.S., "Sĩ Nhiếp truyện", trang 1041-1042.
12. Trần Thọ, sách đã dẫn, Ngô Chí, quyển 15, "Lữ Đại truyện", bộ N.T.N.S., trang 1062, cột 4.
13. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 78, tờ 6, 26-27.
14. Đường Thái Tông Văn Hoàng đế, Tấn thư, quyển 57, trong N.T.N.S., "Đào Huỳnh truyện", trang 1234, cột 4; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 79, tờ 16a.
15. Đường Thái Tông Văn Hoàng đế, sách đã dẫn, quyển 57, trong N.T.N.S., "Ngô Ngạn truyện", trang 1235, cột 2.
16. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 89, tờ 17a, quyển 92, tờ 20a, quyển 104, tờ 24-25, quyển 116, tờ 4-5; Đường Thái Tông Văn Hoàng đế, sách đã dẫn, quyển 59, "Vương Lạng truyện", trang 1314, cột 3.
17. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 99, tờ 2, quyển 116, tờ 17a, quyển 119, tờ 4a; Đường Thái Tông Văn Hoàng đế, sách đã dẫn, quyển 8, trang 1095, cột 2, trang 1099, cột 2, quyển 10, trang 1100, cột 2.
18. Lương Trần Ước, Tống sử, trong N.T.N.S., quyển 5, trang 1428, quyển 8, trang 1434, cột 2, 3, quyển 38, trang 1540, quyển 76, trang 1613, cột 4; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 122, tờ 8a, 20b, quyển 124, tờ 26, quyển 125, tờ 2b, quyển 132, tờ 16a.
19. Túc Tử Hiển, Nam Tề thư, trong N.T.N.S., quyển 3, trang 1671, cột 2; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 135, tờ 9, quyển 136, tờ 8a, quyển 137, tờ 11a.
20. Đào Tư Kiêm, Lương thư, trong N.T.N.S., quyển 2, trang 1769, cột 1, trang 1770, cột 2, quyển 3, trang 1771, cột 2, trang 1773, cột 1, 2, Trần thư, quyển 1, trang 1850; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 158, tờ 17, 20, 21, 27, quyển 159, tờ 3, 12, 15, quyển 180, tờ 8b.
21. Đại Việt Sử ký Toàn thư nói rằng Lý Bí lấy niên hiệu là Thiên Đức. Nhưng Tư Trị Thông Giám chép (quyển 158, tờ 27): "Đại đồng thập niên, chính nguyệt, Lý Bí tự xưng Việt đế, trí bách quan, cải nguyên Đại Đức".
22. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 177, tờ 13a.
23. Trường Tôn và Võ Kỵ, Tùy thư, trong N.T.N.S., quyển 2, trang 2350, cột 2, quyển 53, "Lưu Phương truyện", trang 2483, cột 3; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 179, tờ 28-29.
24. Lý Diên Thọ, Bắc sử, trong N.T.N.S., quyển 73, trang 2976, cột 4, quyển 95, trang 3037, cột 1; Lưu Hu, Đường thư, trong N.T.N.S., quyển 59, "Khâu Hòa truyện", trang 3296, cột 4, quyển 65 "Cao Sĩ Liêm truyện", trang 3309, cột 1; Âu Dương Tu, Tân Đường thư, quyển 90, trang 3897, cột 2 và quyển 95, trang 3903, cột 3, 4; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 185, tờ 19-20; Nguyễn Phương, "Những sai lầm của Đại Việt Sử ký Toàn thư", Đaị Học, tháng 10, 1962, trang 784-799.
25. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 193, tờ 2-3.
26. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 195, tờ 6, 12. Ngày Kỷ tị, tháng 11, năm 12, hiệu Trinh Quán tức là ngày 4 tháng 1, 639 dương lịch.
27. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 200, tờ 11.
28. Âu Dương Tu, sách đã dẫn, quyển 4, trang 3641, cột 1, quyển 201, trang 4099, cột 3; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 204, tờ 2b.
29. Âu Dương Tu, sách đã dẫn, quyển 207 "Dương Tu Húc truyện", trang 4111, cột 3.
30. Tư Mã Quang gọi Mai Thúc Loan là Mai Thúc Yên (Tư Trị Thông Giám, quyển 212, tờ 19a). Xem Lưu Hu, sách đã dẫn, quyển 8, trang 3082, cột 2, quyển 184, trang 3556, cột 1.
31. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 215, tờ 4.
32. Toàn thư (quyển 5, tờ 6a) kể rằng cùng đi đánh quân Tàu với Đỗ Anh Hân có một người Mường tên là Phùng Hưng. Sau khi đánh xong, không lâu, Phùng Hưng mất, con ông là Phùng An lập đền thờ ông và gọi ông là Bố Cái Đại vương.
33. Lưu Hu, sách đã dẫn, quyển 138, "Khương Công Phụ truyện", trang 3453, cột 4; Âu Dương Tu, sách đã dẫn, quyển 152, trang 4007, cột 1.
34. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 241, tờ 13b, quyển 243, tờ 35a.
35. Ngày tân vị tháng 3 năm Nguyên Hòa thứ 15 tức là ngày 15-5-820.
36. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 243, tờ 2a, 6a, 14b.
37. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 243, tờ 35a, quyển 247, tờ 23a.
38. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 249, tờ 20b.
39. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 249, tờ 23, 24a.
40. Lưu Hu, sách đã dẫn, quyển 195, trang 3610, cột 4; Âu Dương Tu, sách đã dẫn, quyển 222 thượng, trang 4156; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 214, tờ 24b.
41. Âu Dương Tu, sách đã dẫn, quyển 222, trang 4157, cột 3; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 250, tờ 13a.
42. Sách đã dẫn, quyển 182, "Cao biền truyện", trang 3550; Âu Dương Tu, sách đã dẫn, quyển 224 hạ, trang 4169; Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 250, tờ 25; Lê Tắc, An Nam chí lược, trang 169.
43. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 266, tờ 17b. Ngày mậu dần tháng ba, năm Thiên hựu thứ hai, tức là ngày 26 tháng 4, năm 905, Việt sử lược nói, Độc Cô Tổn đã sang Tĩnh Hải làm Tiết độ sứ thay Chu Toàn Dục, nhưng sự thực, Cô Tổn không hề sang cổ Việt. Là Tể tướng của nhà Đường, và địch thủ của Chu Toàn Trung, Cô Tổn bị Toàn Trung hạ xuống làm Bình chương sự kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải ngày 26-4-905, nhưng ông không đi, và phải hạ nữa làm thứ sử Đệ Châu vào ngày tân tị tháng 5, năm đó, tức là ngày 28-6-905, rồi hạ thêm tư hộ Quỳnh Châu ngày mậu tí tháng 6, tức là ngày 5-7-905.
44. Tư Mã Quang, sách đã dẫn, quyển 268, tờ 10a.
45. Âu Dương Tu, Tân Ngũ Đại sử, trong bộ N.T.N.S., quyển 65, trang 4468, cột 4, trang 4469, 1, 2. Toàn thư (quyển 5, tờ 18a) chép rằng: "Mùa thu, vào tháng bảy, vua Nam Hán sai một tướng giỏi là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh Giao Châu, bắt được tiết độ sứ Thừa Mỹ đem về". Hỏi tên Lý Khắc Chính nầy bởi đâu mà đến? Tên đó không có trong Tân Ngũ Đại sử, cũng như trong Việt sử lược. Phải chăng đây là một trường hợp nữa làm chứng cách chép sử "mường tượng" của Ngô Sĩ Liên? Theo Tân Ngũ Đại sử có tên hai tướng:
Lý Thủ Dung
Lương Khắc Trinh
Trong hai tên đó gặp được hai yếu tố của tên Lý Khắc Chính: Lý lấy ở tên thứ nhất và Khắc lấy ở tên thứ hai. Nhưng Chính thì lấy ở đâu? Hơi khó mà theo dõi sự lệch lạc trong óc Ngô Sĩ Liên. Chúng ta có thể đoán rằng bấy giờ cách đọc chữ tr đã lệch ra thành ch, nhưng như thế thì chúng ta có Lý Khắc Chinh, chứ sao lại Lý Khắc Chính? Thì đoán thêm tí nữa: Có lẽ Khắc Chinh không ý nghĩa bao nhiêu, nên trong óc thông minh của nho gia tự nhiên lệch ra Chính. Sự lệch nầy đã thấy trong An Nam chí lược (trang 190), tại đây Lê Tắc đã gọi viên tướng của nhà Nam Hán là Lương Khắc Chính. Và kết quả là Lý Thủ Dung + Lương Khắc Trinh - trí tưởng tượng của tác giả = Lý Khắc Chính.